9 tháng 10, 2013

NƯỚC MẮT RƠI CHUNG

SGTT - Bạn nói có thể chị đàn bà đứng nức nở trên phố Hoàng Diệu ấy, vừa đóng quầy may sẵn ở chợ Đồng Xuân, bạn đã bị chị mắng một lần vì “nói giọng miền Nam mà còn mặc cả”.

Có thể người đàn ông mếu máo đặt mấy bông cúc vàng ở hàng rào ngôi nhà số 30 kia, vừa chạy xong cuốc xe ôm, bạn đã từng bị anh chở đi đường vòng để lấy tiền cho ngọt...

Nhưng những va quệt đã từng gặp phải trên đất Hà Nội đã trôi hết, xí xoá hết trong bạn vì những người đã đến khóc trước nhà vị tướng vừa qua đời, trong bản tin tối.

Tivi trong quán ăn tiếng được tiếng mất, nhưng bọn tôi chừng như nghe được tiếng nước mắt chảy.

Không chỉ từ những gương mặt lướt qua trên màn hình, mà còn từ những người không xuất hiện trên tivi như bạn, hay từ trong lòng những người giả bộ mình cứng cỏi, như tôi.

Tự nhận là già rồi, nghi ngờ cả nước mắt, nhưng bạn nói lần này, bỗng tin những người kia cảm động thật lòng.

Mà ông tướng đó cũng không phải ruột thịt, hay họ hàng xa, hay láng giềng ở cạnh nhà.

Ông giỏi thì khỏi nói, cái đó cả thế giới chịu rồi, “nhưng tụi mình đâu phải thương chỉ mỗi chuyện đó”, bạn quệt cùi tay chùi nước mắt, nói “nghĩ tới ông như là nghĩ tới ông nội mình, không hề có cảm giác xa xôi vĩ đại”.

Bàn bên mấy anh đòi nợ mướn cũng thôi chửi thề một con nợ khó nhằn, một anh buột miệng “nhìn ổng hiền như con cọp ăn chay”.

Màn hình đông chừng mười lăm giây nụ cười hồn hậu của ông tướng.

Tự biết trong lòng người dân, hình ảnh ấy còn đọng lại rất lâu.

Bạn tôi tin hồi tại thế ông sống như mình có, không cố ý sống sao cho dân phải khóc khi lìa cõi tục.

Tự nhiên từ khí chất.

Thấy ông tưới phong lan, cũng lui cui như ông già kế bên nhà.

Thấy nụ cười, biết rằng những oan khuất nhục vinh, đã bị ông phẩy tay bỏ lại.

Chỉ dân là ông không quên, khi thỉnh thoảng gửi báo những bài viết tâm huyết đóng góp cho chính sách dân sinh.

Mấy hôm trước càphê sáng với nhau, bạn còn kêu xã hội nhìn đâu cũng rẽ chia xáo xác.

Sẵn sàng cãi nhau vì một cuốn sách, ông xài điện thoại Mỹ tôi dùng điện thoại Hàn, vì em mê nhạc sến anh thích sang.

Cảm giác loạn lạc từ chính trường cho tới từng mái ấm, từng cái tổ của mỗi người.

Đi bên bờ vực ai không chịu được nấy rơi, tưởng không có gì ngăn lại được dòng người chèn lấn...

Bỗng tất thảy họ dừng lại chỉ vì một hơi thở vừa dứt vô phương nối lại.

Bạn rươm rướm nói: Ông tặng cái chết của mình cho người dân như một cơn mưa phúc lành.

Họ, cũng như bọn tôi, ẩn nỗi tiếc thương ông già rực rỡ đó, thấy tâm hồn mình bỗng dưng liền sẹo, bâng khuâng vì ý nghĩ mình cũng còn khả năng khóc cho một người dưng.

Cách khóc mỗi người mỗi khác, có người tận nhà ông già cúi đầu đặt bó hoa, người ở xa ngồi trước tivi lén kéo chéo áo lau đuôi mắt, người nuốt trộng vào lòng, người lại thở hắt ngậm ngùi “rồi ai cũng về, người ở đến gần một trăm lẻ ba năm chớ đâu ít ỏi gì, mà sao ai cũng tiếc, lại có người ở mới sáu mươi mà dân ngán ngẩm thôi rồi”.

Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ tạnh của những người trót sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu người cùng chung một niềm mất mát.

Bạn nói có bốn trong mười phần nước mắt đã chảy ra, chúng ta khóc cho việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có thể thương chung, khóc cùng.

Cúi đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ với những ông quan còn đang sống.

NGUYỄN NGỌC TƯ

8 tháng 10, 2013

CHỮ "NHẪN" TRONG CUỘC ĐỜI ĐẠI TƯỚNG

Đào Tuấn (Bài viết từ 2011) - Tờ báo mình làm, sáng nay có một bài của GS. Nguyễn Lân Dũng, đặt tên là "Đại tướng Võ Nguyên Giáp chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức" nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông.

Ngồi ở cuộc họp giao ban, mình ngứa mồm định nói rằng: "Bài này, thực không hiểu là viết về "bác Giáp", về GS Nguyễn Lân "bố tôi", hay viết về chính "tôi"- GS Nguyễn Lân Dũng.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại ngậm miệng, nhẫn đi một tí có lẽ là hơn nhất.

Chẳng phải là sự trí nhẫn, mà biểu hiện bên ngoài là sự bình thản, đã giúp Đại tướng thượng thọ trăm tuổi, vượt qua bao cơn "bạo bệnh" đó sao?.

100 tuổi - Chỉ có sự bình thản đến ghê gớm của một một bản lĩnh phi thường, hoặc một sự nhẫn nhịn hơn người mới giúp người ta có thể chiến thắng cả thời gian đến như thế.

Tác giả Lê Mai đã viết: "Giữa những ngày chiến tranh cực kỳ khốc liệt, ông vẫn chơi đàn piano. Hình như, âm nhạc làm cân bằng con người ông. Ông đã ngồi đệm đàn đàn piano để Nghệ sỹ Nhân dân Tường Vi hát".

Giữa mặt trận, một ông Tổng Tư lệnh đệm đàn cho người Nghệ sỹ nhân dân hát bài hát ngợi ca người lính của mình, thật là một hình ảnh xúc động, hiếm có.

Nhưng có nhiều cuộc chiến không ác liệt bởi súng nổ và máu đổ.

Có những điều còn đáng sợ hơn cái chết.

Có những kẻ thù còn nguy hiểm hơn kẻ thù ngoài mặt trận.

Mình rất muốn được hỏi ông rằng: "Ông phải ngồi thiền nhiều nhất là khi nào? Thời chiến hay thời bình?".

Đến nay, vẫn còn tồn tại trong dân gian câu chuyện về "bài thơ chữ Nhẫn" mà cứ 10 người thì 9 cho rằng đó là bài thơ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người còn lại chắc không biết là của ai). Có những câu thế này:

Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để liệu đường lo toan
Có khi nhẫn để vẹn toàn
Có khi nhẫn để chớ tàn sát nhau.

(Bản phổ thông dùng chữ "tàn hại"- Tại hạ để chữ tàn sát)

Cách đây ít lâu, có người khẳng định đây là bài thơ của Cụ cử Tử An Trần Lê Nhân (1888-1975) người làng Bát tràng đồng soạn giả Cổ học tinh hoa, từng làm quan đốc học tỉnh Hưng Yên.

Và bài thơ này sau đó được Giáo sư Trần Văn Hà đọc tặng cho Đại tướng.

Trên tạp chí “Thế giới trong ta”, Giáo sư Trần Văn Hà (người cháu, gọi giáo sư Trần Lê Nhân là bác ruột) đã kể lại trong một dịp đến chúc tết “Thầy Võ", Giáo sư đã đọc để Đại tướng nghe bài thơ “Nhẫn” này.

Còn Đại tướng khi nghe xong thì vẩn vơ, dáng vẻ trầm ngâm.

Nhưng thôi, dù là thơ của ai thì Nhẫn vẫn là một chữ cả đời phải học, dùng trăm năm không cũ, không hết.

Thế đâu là hình ảnh về sự bình thản của ông?.

Đoạn dưới đây trích từ bài viết của nhà báo Huy Đức:

"Tiếng vỗ tay như vỡ tung Cung Hữu Nghị Việt Xô khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn giọng: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là Tổng Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”.

Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng Tướng Giáp, từ lâu ông đã có 1 gương mặt rất ít biểu lộ.

Nhưng, những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ, lăn khi, tiếng vỗ tay vẫn cứ kéo dài.

Hôm ấy là ngày 6/5/1994, tại Hà Nội, Nhà nước tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Bài diễn văn dài của Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ vỏn vẹn có 59 từ nói về Tướng Giáp, lại được viết rất công thức, “rào đón” bằng cả “Bộ Chính Trị” và “Bác Hồ”.

Sở dĩ, chúng có thể tạo ra sự rung động đặc biệt đến vậy, là vì đó là lần đầu tiên trong hơn 1 thập kỷ, cái tên Võ Nguyên Giáp lại  được nhắc đến trong 1 buổi lễ chính thức. Điện Biên Phủ là 1 chiến thắng “chấn động”, 1 chiến thắng đưa Võ Nguyễn Giáp trở thành 1 bậc tướng huyền thoại.

Nhưng, năm 1984, khi chuẩn bị số đặc biệt mừng 30 năm Điện Biên, vào giờ chót, 1 tờ báo lớn đã phải “bóc” hình Tướng Giáp".

Tác giả Lê Mai viết:

Năm 1984, giữa lúc thế giới và Việt Nam đang chuẩn bị kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ thì người ta giao cho ông Giáp kiêm thêm chức phụ trách Uỷ ban Sinh đẻ có kế hoạch.

Việc đó, dù quan trọng, nhưng ai làm cũng được.

“Họ” ghen tỵ với tài năng của ông, với hào quang của ông, với sự yêu mến của nhân dân dành cho ông?.

“Họ” muốn viết lại lịch sử, muốn phủ định vai trò của ông?. “Họ” bảo, thôi cất cái mũ phớt đi được rồi (ám chỉ hình ảnh Võ Nguyên Giáp đội mũ phớt, đứng trước hàng quân).

“Họ” tâng bốc, đồng chí (….) là Tổng Công trình sư của đường lối đánh Mỹ và là Tổng Tư lệnh trên thực tế.

Chỉ một câu đó thôi, đã phủ nhận hai nhân vật lịch sử là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

Nhà sử học Dương Trung Quốc thì nhớ lại:

Năm 2004, vào dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi đã có dịp hỏi Đại tướng về một trong những nhiệm vụ dân sự mà ông đã đảm nhiệm là Chủ tịch Ủy Ban Quốc gia Dân số và  sinh đẻ có kế hoạch.

Tôi tưởng đấy là câu hỏi "nhạy cảm" nhưng ông cười và trả lời: Chắc có nhiều điều thêu dệt lắm phải không?. Thực ra, khi đó, chính anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) trực tiếp "nhờ" tôi gánh vác vì theo tập quán Quốc tế, với vấn đề quan trọng này thì phải cấp Thủ tướng phụ trách mà anh Tô quá bận. Đối với tôi, đấy là một nhiệm vụ, mà đã là nhiệm vụ thì phải hoàn thành...

Mình tin là Sử gia họ Dương đã nói thật.

Tin cả câu trả lời của tướng Giáp cũng thật.

Nhẫn đã đến độ "Mưa to (coi) như mưa nhỏ. Mưa nhỏ như không mưa" thì quả là đã đạt đến hai chữ TRÍ NHẪN

Liên quan đến quan điểm về chữ nhẫn của Tướng Giáp, trong một cuộc giao lưu gần đây một bạn đọc đã đặt câu hỏi: "Tôi có cảm giác chữ NHẪN xuyên suốt trong Bác Giáp. Nghe nói, Bác Văn luôn khuyên cán bộ dưới quyền phải biết nhẫn, biết kiềm chế?".

Bà Võ Hòa Bình, con gái của Tướng Giáp đã trả lời như sau: "Những khi bạn bè, đồng chí, người thân hoặc chính bản thân ông gặp lúc khó khăn, bao giờ chúng tôi cũng thấy ở Ba một thái độ bình thản. Ông điềm tĩnh nhưng kiên quyết làm rõ đúng - sai với niềm tin rằng sự thật và cái đúng sẽ sáng tỏ. Và ông đã truyền cho chúng tôi niềm tin như vậy".

Còn Đại tá Trịnh Nguyên Huân, người mấy chục năm theo Tướng Giáp thì đáp: "Hiểu chữ Nhẫn có rất nhiều cách hiểu. Để mọi người hiểu quan điểm của mình, cần phải thuyết phục và có thời gian. Đấy cũng là Nhẫn. Để thực hiện việc nào đó, cần thuyết phục mọi người để họ hiểu và đi vào hành động, cũng cần thời gian. Đấy cũng là Nhẫn. Trong khoa học, để ra một chính sách một chiến lược về khoa học, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng để đi tới thống nhất, Đại tướng cũng phải thuyết phục. Đấy cũng là chữ Nhẫn". (Trích đến đây thì mình hết kiên nhẫn trước sự kiên nhẫn của Đại tá Huân trong việc giải thích chữ Nhẫn).

Viết đến đây, mình chợt nhớ là mình đã điện hỏi chị Lương Thị Bích Ngọc, đồng hương Quảng Bình và cũng là người tổ chức buổi giao lưu bên Bee.

Chị Ngọc rối lên rằng: "Tế nhị lắm! Phải bỏ nhiều câu hỏi lắm". Lại than: "Giờ tao còn đang run đây!".

Vì sao, đến giờ làm một cái giao lưu trực tuyến tôn vinh người Anh hùng dân tộc, vẫn còn phải ngó trước ngó sau, bỏ cái này thêm cái kia vì "tế nhị" thì quả thực, mình không hiểu được.

Năm 1986, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng phát biểu: "Tất cả chúng ta đều có thắc mắc giống nhau: Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ mà không nhắc đến tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lịch sử là lịch sử, nếu thiếu chân thật, sẽ ảnh hưởng đến đạo lý…Trong đấu tranh tư tưởng, có khi một người nào đó bị đánh giá là sai, rồi với thời gian, ý kiến của người đó chịu được thử thách, là đúng thì chúng ta thẳng thắn công nhận cho đúng mức, bằng không sẽ có trường hợp kỳ quặc sau đây: Người đúng luôn luôn phải sai và người sai luôn luôn phải đúng! Một thứ số mệnh rất khó hiểu”.

Bình luận về chuyện này, tác giả Lê Mai viết:

Bản lĩnh lớn của ông là ở chỗ, không bao giờ ông thanh minh cho cá nhân mình bất cứ việc gì.

Kể cả với những người “xấu chơi”, ông vẫn giữ thái độ hoà nhã, cư xử nhã nhặn. Bởi, tầm văn hoá của ông cao hơn hẳn họ.

Cũng có người không đồng ý với ông điểm này, điểm khác, song đặt mình vào hoàn cảnh của ông để mà hành động, thật không đơn giản chút nào.

Hành động bao giờ cũng cao hơn mọi lời nói!.

Bài học lịch sử là: Người nào định xoá bỏ lịch sử, người đó sẽ bị lịch sử xoá bỏ! Đó là quy luật!.

Năm nay Vị tướng của nhân dân đã tròn trăm tuổi, nhưng vẫn còn rất nhiều dấu hỏi xung quanh cuộc đời ông.

Chẳng hạn, về hồi Mậu Thân, (Nói như nhà sử học Dương Trung Quốc, Mậu Thân là một khoảng trống trong sử liệu), cái hồi mà Hữu Thỉnh viết:

Có trận đánh trở về
Nhìn đống súng thừa như nhìn thừa đũa bát
Thừa đến nỗi những người sống sót
Cũng không nỡ nhận mình là may

Hay câu chuyện Thành Cổ, nơi mà vị Tướng "tiếc đến từng giọt máu của lính" có lẽ đã khóc khi nghe những câu thơ Lê Bá Dương "Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm".

Vì sao hồi Mậu Thân, Tướng Giáp được đưa sang Bungari "nghỉ ngơi"?.

Vì sao hồi đánh Thành Cổ, ông lại không được quyết định chiến thuật?..

Tất cả đều là những khoảng trống.

Bản thân những gì viết về Tướng Giáp cũng có những "khoảng trống", đến nỗi Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết: "Thực sự vị danh tướng ấy thế nào, số phận ra sao thì cho đến nay, vẫn chẳng có mấy ai biết".

Đoạn kết dưới đây lấy lại của Nhà báo Huy Đức:

Năm 1975, kết thúc chiến tranh.

Năm 1977, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cho thôi chức Bí thư Quân ủy trung ương, thôi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, những chức vụ mà ông được giao kể từ năm 1946.

Năm 1982, ông không còn là Ủy viên Bộ Chính trị.

Năm 1983, ông được giao kiêm nhiệm chức Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về Sinh đẻ có kế hoạch.

Năm 1983, dân gian làm thơ: “Nhà thơ làm kinh tế/Thống chế đi đặt vòng”.

Cũng trong năm 1983 ấy, ông về quê, thảnh thơi đi bộ ra chợ Tréo (huyện Lệ Thủy, Quảng Bình). Chợt hỏi: “Bún chợ Tréo chấm ruốc, giờ có còn ngon không?”.

Mấy người dân quê nghe “bún chấm ruốc” từ miệng vị Tướng lẫy lừng, không hiểu sao, òa khóc...
---------------------------------------
* Hình ảnh đời thường của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, đã được đăng tải trên các PTTTĐC.

ĐẠI TƯỠNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI BỘ ĐỘI HẢI QUÂN

Đại tướng thăm và kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu tại Vùng 1 - Hải quân (1973)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho Đoàn Đặc công Hải quân 126, năm 1967.
Đại tướng chỉ huy diễn tập tại Vùng 1 - Hải quân (1964)

DÂN ĐÃ THỜ AI THÌ KHÔNG BAO GIỜ NHẦM CẢ

Lao động - “Em gái Mường Phăng”, năm nay tròn 100 tuổi, đã bật khóc trước di ảnh Đại tướng. 

Những giọt nước mắt đục mờ lăn dài trên đôi má nhăn nheo của một người đã sống đến trăm tuổi, nếm đủ đắng cay vinh nhục được mất của cuộc đời, tưởng chừng chẳng còn gì khiến bà rơi nước mắt.

Những chàng trai áo đỏ của đội tuyển U.19 quốc gia, băng tang đính ngay dưới lá cờ tổ quốc bên ngực trái, đứng lặng yên 1 phút mặc niệm tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước một trận đấu vòng loại U.19 Châu Á ở Kuala Lampur, Malaysia.

Người lính già Phàng Sao Vàng quân phục bạc thếch bụi thời gian, ngực đỏ huy chương, ống thấp ống cao, giơ tay ngang vành mũ chào người “Anh Cả”.

Một phụ nữ vượt hàng ngàn cây số từ Bình Dương ra Hà Nội, chỉ để đặt bên tường những đóa hoa huệ trắng.

Cô gái trẻ đứng bần thần mắt đẫm lệ.

Giai điệu trầm hùng, bi ai của bản “hồn tử sĩ” được người nghệ sĩ đường phố tấu lên, trong cảnh đoàn người miên man, trầm mặc bước trong ánh nắng vàng cuối thu.

Một cậu bé tựa lưng vào vai người cha, mệt mỏi vì chờ đợi nhưng tay vẫn nắm chặt tấm ảnh của vị Đại tướng nhân dân.

Nhân dân đã tổ chức “Quốc tang” cho ông ngay từ tối ngày 4.10, và trắng đêm, với tràn ngập những hình ảnh, những dòng vĩnh biệt trên mạng xã hội. Đến nỗi không ai nỡ viết một điều gì khác.

Nếu còn cần có thêm một con số thì đó là 11.000 người đã đến bái biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 11.000 người trong chỉ một buổi chiều.

Chúng ta đang chứng kiến điều gì vậy?

48 giờ qua, biết bao nhiêu từ ngữ nói về ông, viết về ông đã xuất hiện.

Một huyền thoại, một biểu tượng… Với vô vàn những tính từ: Kiệt xuất, lẫy lừng…

Nhưng nói về Tướng Giáp, không có gì ngắn gọn, súc tích và đầy đủ hơn đôi câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu đã tặng ông “Võ công truyền quốc sử/Văn đức quán nhân tâm”.

Nói về Tướng Giáp, không gì giản dị và cao quý hơn hai chữ “Anh Cả” mà những người lính dùng để gọi vị tư lệnh của mình.

Và nói về Tướng Giáp, đồng bào các dân tộc Điện Biên gọi ông là “Ải pú tạp xấc” (Ông nội đánh giặc).

Còn nhân dân, nói về ông bằng một chữ NGƯỜI.

Những giọt nước mắt của cả dân tộc đang cho thấy đó không chỉ là niềm tiếc thương, ngưỡng mộ, tự hào về một vị tướng tài danh đã đi vào sử sách, một vị tướng mà ngay kẻ thất trận cũng cúi đầu bái phục.

Chúng ta đang được chứng kiến những gì đẹp đẽ nhất của lòng dân khi cả dân tộc đang xích lại gần nhau trong một nỗi đau chung.

Tướng Giáp có lẽ sẽ ngậm cười nơi chín suối khi chính ông một lần nữa chứng minh tinh thần dân tộc nằm trong chính mỗi người Việt Nam, một tinh thần dân tộc chỉ có thể nghiêng mình trước một nhân cách lớn chứ không bao giờ quỳ gối trước bất cứ kẻ thù nào.

Sau gần nửa thế kỷ, đất mẹ mới thêm một lần chứng kiến những giọt nước mắt dân tộc khi “Bao nhiêu nước mắt khóc Bác Hồ, giờ khóc bác Giáp” - lời GS Vũ Khiêu.

Cả dân tộc đang lặng lẽ khóc chung một giọt nước mắt tiếc thương, tự hào.

Hình như dân đã thờ ai thì không bao giờ nhầm cả.
-----------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại, không phải nguyên bản của tác giả Đào Tuấn và Báo Lao động.
* Hình ảnh đã được đăng tải trên các PTTTĐC

1 tháng 10, 2013

THÁNG MƯỜI...

Bao giờ cho đến tháng Mười
Lúa chín trên cánh đồng giông bão

Ta để lại sau lưng những ngày dài mong đợi
Những mất mát hi sinh, khổ đau, chịu đựng

Khi trời thu vẫn xanh mãi trên đầu...

(ĐNM)

30 tháng 9, 2013

TRONG NỚ BÂY CHỪ CÒN MƯA KHÔNG MẸ?..

Trong nớ chừ còn mưa không mẹ
Khế ra hoa khế có rụng tím vườn
Con may túi ba gang gói lại thời cổ tích,
Có thể nào gói hết được yêu thương

Đành gửi lại miền Trung cơn mưa ấy,
Mưa ướt tuổi con mười mấy năm rồi
Nhưng sẽ trở về vững vàng trong mắt bão
Tự đáy lòng, dâng mẹ những yên vui...

Thơ: Hoàng Anh Minh; ảnh: XNA

NẶNG NHIỀU VAI LẮM, MIỀN TRUNG...


Nguồn: XNA

NGHÈN NGHẸN MIỀN TRUNG, LŨ LỤT LẠI TRẮNG TRỜI


Nguồn: XNA

MÙA MƯA PHƯƠNG NAM TRÙNG VỚI MÙA BÃO LŨ NGOÀI KIA...

Nguyễn Ngọc Tư -Cái nước mình nhỏ thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà chót Mũi cũng mưa tối mắt.

Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà chiều ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó chuỗi mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời âm u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm thanh rả rích.
Tôi lánh cái nhìn vô cái pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe bị đinh đâm lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc con. Anh vá xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia ẳm lủng lẳng đứa sau, nói “Tối nay bão vào quê, không biết thằng em chống chọi sao rồi”.

Tin báo bão trên đài nói rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải, anh vá xe rầu.

Năm trước nhà em trai anh bị bão dỡ một lần, vừa vá xong đận này chắc là lại rách. Nhiều năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này năm ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó đi xúc cá bị chết đuối.

Khi người đàn ông này dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây, đã không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục ở đây. Lần nào ghé căn chòi sửa xe này, tôi có một chút khó thở.

Không hiểu vì trà Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người ta từ dưới đáy ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình ảnh thằng bé mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua kẹo ở tiệm tạp hóa gần nhà, vắt đứa em gái trên cái hông mỏng te bén lẹm xương của nó.

Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều kỷ niệm với những người Bắc di cư vào.

Tiệm gạo nhà tôi cất ngay cửa ngõ vào cái xóm Hà Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng nói quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm.

Mùa mưa, xóm lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng giữ nhà rướn cổ ném cho khách những tiếng kêu đầy ác cảm.

Sân nào cũng đầy dấu chân của vịt, gà. Những thùng nước cơm cặn lặc lè yên sau xe đạp.

Cô giáo dạy văn mà tôi thương nhất. Con bạn cùng lớp cạnh tranh vị trí nhất nhì. Vài chị là mối mua mua gạo cám của tiệm nhà tôi.

Những con người ấy làm tôi thắc mắc cái xứ sở mà tôi gọi là nước Bắc không biết gần hay xa.

Chắc xa, họ gọi chén bát lung tung xèng, phở thì không rau giá, canh chua không nêm đường, cà đem muối trong chum, bánh tét lại vuông. Chắc xa, năm bảy cái tết họ mới về quê một lần.

Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám làm tôi thấy họ gần mình.

Bởi những cái thở dài không phân biệt tập quán và quê xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía quê nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy rầu thôi, nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa cũng ướt, ai ở dưới trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt.

Cùng một nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm, cơn cảm cúm mũi dãi chảy sụt sùi.

Những cuộc đi mê miết đã làm nhòa những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc.

Cửa hàng bán đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên nội ô thành phố.

Nhưng phở gia truyền Hà Nội cũng rau giá đầy vun, bánh cuốn gia truyền Hà Nội với nước chấm pha đường ngọt lịm.

Tết, nhà họ cũng có nồi thịt kho tàu.

Lâu lâu trên đài địa phương có phát biểu của một ông giọng miền ngoài mà bắt đầu bằng mấy chữ ‘thưa bà con”.

Mấy em cộng tác viên gốc Bắc viết truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng phương ngữ miền tây ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã dạ thay cho vâng.

Anh thợ sửa xe nói, từ khi không còn cha mẹ già ngoài ấy, thì loay hoay chỉ trung thu và tết mới thấy nhớ quê, dợm muốn về.

Miền Tây không có cái không khí lễ hội của trăng rằm và dịp đầu năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước đi đâu cũng khó.

Anh bỏ sót mưa. Dãi đất nằm nghiêng theo biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp thấp nhiệt đới gần bờ, không tạt vô trung thì ra bắc.

Mùa mưa phương Nam trùng với mùa bão lũ ngoài kia.

Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc rễ tưởng đã bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng em ở quyển sổ nào, quên mất.

Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc gọi từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.
---------------------------------------------------------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại, không phải nguyên bản của tác giả.
* Hình minh họa, đã được đăng tải trên trang Xóm Nhiếp ảnh.

29 tháng 9, 2013

MỘT TẤM BIA TƯỞNG NIỆM, TRÊN ĐỈNH SÌ LỜ LẦU

Mai Thanh Hải - Nói đến Sì Lờ Lầu (huyện Phong Thổ, Lai Châu) bây giờ, khối người ở Lai Châu cũng chỉ... loáng thoáng: "Đó là xã vùng cao biên giới, xa xôi và cao nhất địa đầu".

Rất ít người biết Sì Lờ Lầu xã vùng cao biên giới (giáp với huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc), có đường biên giới dài 24,583 km (biên giới đường bộ 14,269 km; biên giới đường suối 10,583 km). Diện tích tự nhiên 4.794,92 ha (trong đó đất Nông nghiệp 351 ha). Dân số 614 hộ (3.673 khẩu), với 99% dân tộc Dao.

Và cũng rất ít người biết:

Sáng sớm ngày 17/2/1979, cùng với lực lượng hùng hậu ở các hướng dọc biên giới phía Bắc, Quân đoàn chủ lực 11 của Trung Quốc bất ngờ nổ súng tấn công Việt Nam và ào ạt nã pháo, xua bộ binh tiêu diệt các đơn vị bộ đội - dân quân tự vệ của ta đang giữ mảnh đất địa đầu Phong Thổ (Lai Châu).

Đối mặt với cả Quân đoàn chủ lực tinh nhuệ của Trung Quốc (biên chế 50.000 lính bộ binh và 1 Trung đoàn pháo binh), phía ta chỉ có một bộ phận của Sư đoàn bộ binh 326 (gồm các Trung đoàn bộ binh 19, 46, 541, Trung đoàn pháo binh 200); Trung đoàn bộ binh 98 (thuộc Sư đoàn Bộ binh 316), một bộ phận của Trung đoàn pháo binh 187, 2 Trung đoàn bộ binh 193 và 741, Tiểu đoàn pháo binh của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lai Châu.

Hướng tấn công vào Lai Châu của lính TQ, năm 1979 là Sì Lờ Lầu .

Đặc biệt, những tiếng súng đầu tiên đánh trả, kìm chân, làm chậm bước tiến của quân bành trướng xâm lược, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ đội chủ lực dàn thế trận, đánh trả "biển người" xâm lăng, chính là các đơn vị Công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), Bộ đội địa phương huyện và dân quân ở các bản làng, tự vệ lâm nông trường - cơ quan Nhà nước...

Tại Lai Châu, tiếng súng đánh trả đầu tiên, bắn thẳng vào quân xâm lược, trong rạng sáng gần 35 năm về trước trên mảnh đất địa đầu Phong Thổ, Lai Châu là của những cán bộ chiến sĩ Đồn Sì Lờ Lầu (Đồn 1), Công an nhân dân Vũ trang tỉnh Lai Châu (nay là Đồn 289, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu), báo hiệu cho toàn quân toàn dân nổ súng đánh địch.

Lịch sử Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã ghi rõ về Đồn Biên phòng Sì Lờ Lầu (Đồn 289):

"Đồn Sì Lờ Lầu phụ trách đoạn biên giới Việt - Trung, phía bắc dãy núi Hoàng Liên Sơn.

Trong địa bàn có 8 xã, với 9 dân tộc ít người, thuộc huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, sáng 17/2/1979, địch có pháo yểm trợ tấn công Đồn.

Đồn Sì Lờ Lầu ngoan cường chiến đấu, đánh trả quyết liệt, diệt nhiều tên địch, đẩy lui các đợt tấn công của chúng.

Cùng ngày, tổ công tác cơ sở của Đồn đã phối hợp với 1 Trung đội dân quân của hai xã Si Lờ Lầu và Vàng Ma Chải liên tục chặn đánh địch, diệt 45 tên, phá tan âm mưu của chúng định cấu kết với bọn phản động địa phương gây bạo loạn.

Ngày 6/3/1979, đồn đã phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, đánh trả quyết liệt 1 Trung đoàn địch ở khu vực Dào San, đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của chúng, diệt 100 tên.

Đơn vị đã kịp thời tổ chức lực lượng luồn sau lưng địch, hợp đồng chặt chẽ với các lực lượng địa phương trấn áp bọn phản động, diệt 5 tên, giữ được địa bàn, bảo vệ được dân.

Đơn vị đã diệt và làm bị thương nhiều tên, thu nhiều vũ khí.

Đơn vị 3 năm liền là Đơn vị Quyết thắng, được tặng thưởng Huân chương Chiến công.

Ngày 19/12/1979, Đồn 1 (Si Lờ Lầu) Công an nhân dân Vũ trang tỉnh Lai Châu được Chủ tịch nước CHXHCNVN tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân"...

Thế nhưng, có 1 điều mà Bản Báo cáo thành tích phong đơn vị Anh hùng cho Đồn Biên phòng Sì Lờ Lầu, không nhắc công khai, đó là:

Ngay trong những ngày đầu tiên đánh trả quân xâm lược, bảo vệ biên cương, bảo vệ Đồn và địa bàn phụ trách đó, những cán bộ chiến sĩ Đồn Biên phòng Sì Lờ Lầu đã bắn đến viên đạn cuối cùng, phải dùng đến lưỡi lê - báng súng đánh trả địch và tất cả họ, đều ngã xuống.

Sau này, khi khởi công xây dựng lại doanh trại mới, trên nền đất cũ, khi đào móng nhà, người ta tìm được rất nhiều hài cốt của những người lính Biên phòng, đã ngã xuống năm xưa.

Các anh dẫu bị vùi trong chiến hào, bờ tường sập đổ do pháo địch, nhưng vẫn nắm chặt dao găm, báng súng và không ít chiến sĩ đang trong tư thế thọc lê vào họng bộ hài cốt nằm rũ rượi bên cạnh, đội mũ mềm gắn sao Bát Nhất.

Huyện Phong Thổ, Lai Châu bây giờ có 4 Đồn Biên phòng và cả 4 đều được hưởng Chế độ ưu đãi xã hội dành cho địa bàn đặc biệt khó khăn gian khổ, áp dụng cho Bộ đội Biên phòng. Đó là các Đồn 277 (xã Nậm Xe), Đồn 281 (xã Dào San), Đồn 293 (xã Vàng Ma Chải) và Đồn 289 (xã Sì Lờ Lầu).

Tháng 9 mình lên Sì Lờ Lầu và đây là lần thứ 2, sau 9 năm đã đến.

Sì Lờ Lầu theo tiếng địa phương nghĩa là 12 tầng dốc. Nhìn trên bản đồ rất dễ nhận ra, bởi địa danh này nằm tại đường Vĩ tuyến cao nhất của tỉnh Lai Châu, với 3 mặt có đường biên giới giáp Trung Quốc.

Nằm cách trung tâm tỉnh lỵ gần 100km, song trước năm 2005, để đến được Sì Lờ Lầu, người ta phải đi bộ 40 km từ trung tâm cụm xã biên giới Dào San.

Sau một ngày ròng rã đi bộ và nghỉ qua đêm lấy sức, sáng ra ngửa mặt lên, như nhìn thấy Sì Lờ Lầu ẩn hiện trong mây.

Vượt qua dốc Tả Páo, người khoẻ phải mất 2-3 tiếng đồng hồ vừa đi vừa bò, còn người yếu thì... cả ngày để qua 12 tầng dốc đứng, chạy hình chữ chi với chiều dài trên 5 km, chiều cao tuyệt đối tới trên 600m.

Trước khi có đường cấp phối chạy lên, không ít cán bộ miền xuôi, khi đến Sì Lờ Lầu phải bò qua 12 tầng dốc, có khi kiệt sức nằm giữa đường, chờ người xuống cáng lên.

Nằm ở nơi gian khó bậc nhất Tổ quốc, Đồn Biên phòng 289 được giao phụ trách 2 xã (Sì Lờ Lầu, Ma Ly Chải), với 28,5 km đường biên giới (từ mốc 70 đến mốc 78); riêng xã Sì Lờ Lầu có 6 bản người Dao.

So với các Đồn Biên phòng trong cả nước, Đồn 289 là Đồn Biên phòng nằm gần đường biên giới nhất (từ đơn vị nhìn rõ đường biên, cách địa danh gần nhất của Trung Quốc chỉ khoảng 1km đường chim bay).

Năm 2004, mình lọ mọ cả 1 ngày bằng cả ôtô, xe máy và... đi bộ, mới vượt được 12 tầng dốc, từ Trung tâm cụm xã Dào San lên tới Sì Lờ Lầu.

Đợt này, đường núi sạt lở nên phải lọ mọ xe máy, phi từ tỉnh lỵ Lai Châu và buổi tối phải ngủ lại Đồn Biên phòng Dào San, sáng hôm sau mới đi được tiếp, đúng buổi trưa mới bò lên tới Đồn Sì Lờ Lầu.

Buổi chiều ở Sì Lờ Lầu, cả Đồn Biên phòng ùa ra sân chơi bóng chuyền.

Lạ nỗi, toàn trai tráng sức vóc đấy, nhưng quả bóng không bao giờ đập ra phía sau nhà bếp, nơi có quả đồi cao, nhô lên cây gạo cháy đen, khô khốc như thể bộ xương in trên nền trời cuồn cuộn mây đỏ bầm.

Anh em chỉ huy Đồn bảo: "Đỉnh đồi cao là nơi các chú các anh co cụm đánh trả quân xâm lược đến viên đạn cuối cùng. Cây gạo ấy, bị pháo Trung Quốc xé tướp táp, chết từ những ngày cuối tháng 2/1979 nhưng qua bao năm vẫn không đổ, như thể linh hồn thiêng của những người ngã xuống, nương náu - trú ngụ trong đó!" và kể: Cả Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh lẫn các thế hệ cán bộ chiến sĩ đã - đang canh giữ mảnh đất địa đầu Sì Lờ Lầu, đều mong có khoản kinh phí, để dựng 1 tấm bia đá trên đỉnh đồi cao, ghi tên những người nằm xuống, trong trận đầu đánh trả quân Trung Quốc xâm lược. Cách đây không lâu, một Đoàn các anh chị lên thăm và làm việc với Đồn, biết nguyện vọng anh em Biên phòng, đã bảo nhau đóng góp được 1 khoản để giúp việc xây bia đá tưởng niệm, với đường bê tông lên xuống, lư hương đàng hoàng trang trọng. Nhưng khi lên dự toán, vẫn không thể xây nổi vì... vẫn thiếu tiền!".

Hơn 30 năm trước, hàng trăm người "lính đỏ - lính xanh" đã ngã xuống trong buổi tờ mờ sáng Sì Lờ lầu, giữa mịt mù đạn pháo, bê bết máu xương để ngăn dòng quân Trung Quốc xâm lược.

Những ngày sau của gần 35 năm, cho đến tận bây giờ, còn biết bao nhiêu xương máu - nước mắt - chia ly - gian khó - chịu đựng của những người lính Biên phòng, cán bộ tăng cường cắm bản... đã đổ xuống địa đầu Phong Thổ, để giữ đất, giữ dân và sự toàn vẹn lãnh thổ.

Mình cứ lẩn mẩn: Giá như, trên vùng cực Bắc Sì Lờ Lầu - Phong Thổ, có tấm bia đá, ghi tên những người lính áo xanh đã hy sinh, trong trận đầu bảo vệ biên giới, thì vong linh những liệt sĩ cũng phần nào được an ủi bởi họ không bị lãng quên, để những người dân địa phương, những người khách đến thăm, cảm nhận được rõ nhất khái niệm "gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc"...

Ai cùng chung sự sẻ chia, tưởng nhớ và tri ân, góp 1 nén hương, viên gạch, cân xi măng xây bia tưởng niệm 25 cán bộ chiến sĩ Đồn Biên phòng Sì Lờ Lầu đã hy sinh, xin đồng hành cùng Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu và Chương trình Áo ấm Biên cương, nhé!.

Mọi sự ủng hộ, sẽ được trao tận tay BCH Đồn Biên phòng Sì Lờ Lầu, trong dịp công tác của Áo ấm Biên cương, mang áo ấm lên tặng 1.624 học sinh 3 cấp học của 2 xã Sì Lờ Lầu - Ma Ly Chải (Phong Thổ, Lai Châu) ngày 4-5/10/2013 tới đây.

Tài khoản tiếp nhận ủng hộ, qua Chương trình Áo ấm Biên cương:

Chủ Tài khoản: MAI THANH HAI
Số Tài khoản: 68683388 001 (VND), 68683388 002 (USD), 68683388 003 (EUR)
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong- Chi nhánh Hà Nội
SWIF CODE: TPBVVNVX (dùng cho chuyển tiền từ nước ngoài về).

Tên tài khoản: Bùi Ngọc Quang.
Số tài khoản: 0371003947007.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB) TPHCM
Swift code: BFTVVNVX

Đề nghị ghi rõ nội dung chuyển tiền: “Ủng hộ xây bia tưởng niệm Đồn BP 289”.

Xin trân trọng cảm ơn!.
----------------------------
Theo dõi hoạt động và cập nhật ủng hộ: BẤM VÀO ĐÂY và VÀO ĐÂY