Thưa các đồng chí Trung ương!.
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!..
Sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra
theo đúng kế hoạch.
Các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham
dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ,
trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc
vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và
giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung
ương đã thống nhất thông qua một số Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị.
Trước khi bế mạc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu,
làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đã
đạt được.
1- Về tình hình kinh tế – xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013
Hội nghị đã thống nhất nhận định: Trong bối cảnh tình hình có nhiều khó
khăn, thách thức, kinh tế – xã hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến
nhất định.
Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá
tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; tỉ
giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị tiền đồng Việt Nam được củng
cố.
Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi; sản xuất nông nghiệp tiếp
tục phát triển ổn định; du lịch, dịch vụ tăng khá.
Các đề án tái cấu
trúc nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược được chú trọng xây dựng
và bước đầu triển khai thực hiện. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ
bản được bảo đảm.
Lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ có bước tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; chính trị –
xã hội ổn định.
Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền
tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng
thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch,
còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lãi suất ngân hàng vẫn còn quá cao so với
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường bất động sản,
thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng còn
nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà
nước và ngân hàng thương mại còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện.
Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xã hội không đạt
được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp
hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó
khăn. Trật tự, an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, tội phạm, tham
nhũng, tiêu cực còn nhiều phức tạp,…
Dự báo thời gian tới, kinh tế thế giới nói riêng và tình hình quốc tế
nói chung còn nhiều diễn biến khó lường.
Vì vậy, trong những tháng còn
lại của năm 2012 và năm 2013, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh
hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hoá,
bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng; thực hành tiết kiệm,
chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu công.
Cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết tình trạng nợ xấu, tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh
thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du
lịch.
Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị –
xã hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.
Quá trình tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là
hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn
kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư
và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt và những kết quả quan
trọng đã đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn
chế, yếu kém còn tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách,
biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị
quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề
này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu.
Kiên
quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong
đổi mới, ứng dụng khoa học – công nghệ, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của
bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc phòng; công nghiệp độc
quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và
một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn.
Sớm
chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc
thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng
chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện
chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên
cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Chức năng điều
tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi mới
và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ
chế thị trường.
Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải
được cấu trúc lại theo mô hình công ty mẹ – công ty con; được kiểm toán
hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế nhà
nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công
ty.
Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
doanh nghiệp, phải tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại
diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết
định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản
nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ
chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách
nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết
định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là
nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc.
Nêu cao vai trò và
trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ
đảng ủy; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng
thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ
thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tùy thuộc vào kết quả sản xuất, kinh
doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc.
Nghiên cứu hình thành cơ quan cấp
bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh
nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp,
phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương
trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà
không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3- Về vấn đề đất đai
Thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tại Hội nghị này,
Trung ương tiếp tục thảo luận và đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của
Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm
2003, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, góp phần huy động và sử dụng có
hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế – xã hội.
Khắc
phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt
là tình trạng đầu cơ , lãng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của
nhà đầu tư , góp phần ổn định chính trị – xã hội.
Trung ương tiếp tục khẳng định: Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và
hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, cần được xác định
cụ thể, phù hợp với từng loại đất, đối tượng sử dụng đất và các trường
hợp giao đất, cho thuê đất.
Quy hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, liên
thông với quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất ; phải tổng hợp,
cân đối, phân bổ hợp lý, hiệu quả đất đai cho phát triển các ngành,
lĩnh vực, vùng lãnh thổ và các đơn vị hành chính trong cả nước; bảo đảm
đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, các dự án có mục đích xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất ở, đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xử lý nghiêm các trường hợp đã được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc
chậm đưa đất vào sử dụng.
Quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng
đất lúa, đất có rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Thu hẹp đối tượng được
giao đất không thu tiền sử dụng đất; mở rộng việc giao đất có thu tiền
sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án sản xuất, kinh
doanh thông qua hình thức đấu thầu dự án hoặc đấu giá quyền sử dụng đất.
Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng để tạo
quỹ đất; trực tiếp thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, giải toả, đền
bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục, bảo đảm
dân chủ, công khai, minh bạch và công bằng.
Thực hiện giá đất do Nhà
nước quy định phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
và với mục đích sử dụng đất, tình hình kinh tế – xã hội của cả nước, các
vùng, miền và địa phương trong từng thời kỳ. Không để các nhà đầu tư
trực tiếp thoả thuận với người sử dụng đất về giá đền bù, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất và
khung giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành
bảng giá đất; bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất
sao cho linh hoạt, phù hợp hơn với từng loại đất, các đối tượng sử dụng
đất và các trường hợp giao đất.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng
kết, đánh giá tình hình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường
quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong
đó có đánh giá việc quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính
sách, biện pháp quản lý phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc
giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và đào tạo
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến về Đề
án “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Trung ương nhận thấy, sau
16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong điều kiện đất
nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với sự cố gắng, nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo, sự nghiệp giáo
dục và đào tạo của nước ta đã thu được những kết quả, thành tựu rất có ý
nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài.
Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta
vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất
cho phát triển; thậm chí còn không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất
lượng giáo dục – đào tạo; công tác quản lý và cơ chế tạo nguồn lực và
động lực cho phát triển.
Để có thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn vào yếu tố năng suất tổng
hợp (TFP) và kinh tế tri thức.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh chóng của khoa
học – công nghệ đòi hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy mạnh toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Những kết quả, thành tựu đã đạt được
về quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho
phép chúng ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó
chính là lý do giải thích vì sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương
phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo,
hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp
dạy và học đến cơ chế vận hành, cơ chế quản lý, xây dựng đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực
hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề.
Đây là những vấn đề
hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, cần
phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn
trọng, tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích
hợp.
Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khoá
IX và các kết luận, quyết định của Bộ Chính trị, chỉ đạo triển khai thực
hiện thật tốt Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm
2020 theo Kết luận của Hội nghị lần này.
5- Về phát triển khoa học và công nghệ
Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là
tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn
lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho
nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát
triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc.
Đảng
và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng
dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực
lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sự tham gia chủ
động, tích cực của mọi lực lượng xã hội và tài năng, tâm huyết của các
nhà khoa học đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển
khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực cho
phát triển khoa học và công nghệ.
Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến
khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ
tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự
nhiên, kỹ thuật và công nghệ.
Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển
khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi
mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của
thị trường khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng
và chính quyền về vai trò của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng
dụng và phát triển khoa học – công nghệ là một bộ phận không thể thiếu
của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.
Nhà nước có
chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khoa
học đầu ngành; cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ
tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau
khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.
Đồng thời, phải vận dụng
đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản
lý nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước.
Tăng cường và phát huy tiềm lực
khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người
Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án
khoa học – công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công tác quản lý
nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột
phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch,
đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh
phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
6- Về xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước
Đây là lần đầu tiên Trung ương bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này.
Trung
ương nhấn mạnh, việc xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ
động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng lãnh đạo, quản lý trưởng
thành từ thực tiễn; chú trọng cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân,
trí thức; tăng tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, con
em gia đình có công với cách mạng, cán bộ khoa học – công nghệ, văn
hoá, nghệ thuật…
Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phải đặt dưới sự
lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm, minh
bạch, khách quan; lấy quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước làm
cơ sở cho công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng
toàn quốc.
Về phương châm, cần thực hiện quy hoạch “động” và “mở”, định kỳ rà soát,
đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện;
bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới.
Chuẩn bị nguồn quy hoạch dồi
dào, mỗi chức danh có thể quy hoạch vài ba người, một người có thể quy
hoạch vào vài ba chức danh.
Lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở các cấp
làm cơ sở cho quy hoạch cấp chiến lược. Lấy quy hoạch cấp chiến lược
thúc đẩy quy hoạch chủ chốt cấp dưới.
Tạo điều kiện công bằng và cơ chế
đặc thù để cán bộ trong quy hoạch cấp chiến lược thể hiện năng lực, phấn
đấu, cống hiến và trưởng thành. Coi công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược là công việc thường xuyên, bình thường trong công tác cán bộ của
Đảng.
Nhân sự đưa vào quy hoạch phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện.
Ban Chấp
hành Trung ương phải có 3 độ tuổi để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và
phát triển; có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện.
Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương phải là cán bộ tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác, có uy tín cao, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ đang đảm nhiệm.
Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư
phải là Uỷ viên Trung ương có phẩm chất, năng lực tiêu biểu, uy tín
cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có tầm nhìn và tư duy chiến lược,
quyết đoán, nhanh nhạy nắm bắt tình hình trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành; dự báo và đề ra được phương án giải quyết các tình huống hệ trọng
của Đảng, của đất nước; có tư duy và trình độ cao về lý luận chính trị;
phát hiện và sử dụng người tài; đã kinh qua các chức vụ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh, thành phố hoặc ban, bộ, ngành trực thuộc Trung ương.
Các
chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước phải là những Uỷ viên
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, uy tín và có
khả năng quy tụ, đoàn kết, thuyết phục trong toàn Đảng; am hiểu tương
đối toàn diện về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
7- Về Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương đã dành gần một phần ba thời gian của Hội nghị
để nghe báo cáo, nghiên cứu và cho ý kiến về nội dung rất quan trọng
này. Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức
nghiêm túc, trách nhiệm và sự gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành 21 ngày, chia
làm 4 đợt (trong 3 tháng) để kiểm điểm tự phê bình và phê bình, coi đây
là đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng vì sự trong sạch, vững
mạnh của Đảng; của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng
chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí;
vừa có lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có
khuyết điểm, vi phạm, theo phương châm “trị bệnh cứu người”, giúp nhau
cùng tiến bộ.
Nội dung kiểm điểm đã bám sát vào các nội dung, yêu cầu
của Nghị quyết Trung ương 4. Các vấn đề nổi cộm, bức xúc đều được đặt
ra, phân tích, mổ xẻ và rút ra những bài học sâu sắc. Không khí thảo
luận, góp ý, tự phê bình và phê bình dân chủ, thẳng thắn, xây dựng ,
chân thành.
Qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình và lắng nghe ý kiến góp ý của cán
bộ, đảng viên, nhân dân, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng
chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ
hơn những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của mình; phân tích, làm rõ
nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp sửa
chữa, khắc phục.
Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều hết sức thấm
thía, day dứt trước những thiếu sót, khuyết điểm, tự nhận thấy phải
nghiêm khắc với mình hơn, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao
trình độ hiểu biết, đổi mới lề lối làm việc; gương mẫu giữ gìn đạo đức,
lối sống; đoàn kết, gắn bó hơn trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Và trên thực tế, nhiều đồng
chí đã tự giác xem xét, nhìn lại mình, bước đầu có tự sửa chữa khuyết
điểm, tự điều chỉnh một số hành vi trong công tác và cuộc sống hằng ngày
của mình, của gia đình, vợ con và người thân.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã bàn và chỉ đạo giải quyết ngay một số vấn đề nổi cộm, bức xúc; phát
huy các nhân tố tích cực, xiết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh
tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiêu cực.
Cũng qua việc
kiểm điểm lần này, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có điều kiện
hiểu biết nhau hơn, chia sẻ, học hỏi lẫn nhau, đoàn kết, gắn bó hơn.
Quá
trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm cũng đã có tác động lan toả, nêu
gương cho cấp dưới học tập và làm theo, góp phần củng cố niềm tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập
thể lãnh đạo đoàn kết, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu, lý
tưởng của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ
quyền quốc gia.
Nhìn chung, các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn
có ý thức giữ gìn đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm
tốn; nêu cao trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc.
Trước tình
hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, bám sát
các quan điểm, đường lối nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết
Đại hội toàn quốc của Đảng và tình hình thực tiễn, quyết định nhiều chủ
trương, quyết sách đúng đắn, sáng suốt; lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan
trọng cả về đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ nhiều khoá nay có một số khuyết
điểm lớn, đặc biệt là chưa ngăn chặn và khắc phục được tình trạng tham
nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Việc một số cán bộ
cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện
chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không
đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó.
Chưa tập trung chỉ đạo làm
rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên
quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội…)
và một số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được
dư luận đồng tình.
Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết
và kết luận của Trung ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng
túng, buông lỏng; kiểm tra, giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập
đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước (điển hình là Vinashin,
Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn,
để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Một số hạn chế, khuyết điểm, chưa
được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải chịu trách nhiệm,
như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm…
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận
lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công
tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu.
Mặc dù nhiều khuyết điểm, hạn
chế có từ các khoá trước, nhưng với trách nhiệm chính trị của cơ quan
lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ viên Bộ Chính trị tự nhận
thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình trước những khuyết điểm, hạn
chế đó.
Và để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, góp phần giữ gìn uy tín,
hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương trong toàn Đảng,
Bộ Chính
trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận
một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ
Chính trị.
Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh, đánh giá rất cao sự nghiêm túc,
gương mẫu và cầu thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong kiểm điểm tự phê
bình và phê bình đợt này cũng như sự quyết tâm, nỗ lực lớn trong lãnh
đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; nhất trí
cao với Báo cáo của Bộ Chính trị, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến phê
bình rất thẳng thắn, sâu sắc.
Kinh nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy, một
khi Đảng tự nhận ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm khắc, quyết tâm
khắc phục, sửa chữa thì sức mạnh của Đảng càng được nâng lên; nhân dân
càng tin yêu và ủng hộ Đảng.
Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức
hiện nay, điều đó càng hết sức cần thiết. Đó cũng chính là một bài học
sâu sắc, một nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vững mạnh của Đảng, bảo
đảm sự ổn định chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước.
Về
việc đề nghị xem xét kỷ luật,
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất
kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định
không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí
trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc
phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc,
chống phá.
Ban Chấp hành Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của
mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu
kém trong thời gian qua.
Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm túc tự phê
bình và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân, và sẽ cố gắng làm
hết sức mình để từng bước khắc phục.
Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu,
lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải nêu cao trách nhiệm trước
Đảng, trước dân, xiết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, giữ
vững niềm tin, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục
những hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững
mạnh, thật sự là đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân
dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các
chủ trương, nghị quyết của Đảng, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm
vụ mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra .
Nhân dịp này, Ban Chấp hành Trung ương cũng ghi nhận, biểu dương các cấp
uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị đã bước đầu tổ chức
thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng.
Trung
ương yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, từng cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiếp tục thực hiện thật tốt
việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tinh thần của Nghị
quyết Trung ương 4, không làm qua loa, hình thức.
Càng xuống cấp dưới,
cấp cơ sở càng phải được chỉ đạo chặt chẽ, hết sức tránh tư tưởng đại
khái, “làm chiếu lệ”, “làm cho xong”; đặc biệt phải có những việc làm
thật cụ thể, thiết thực, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực tế để mỗi tổ
chức mạnh hơn, mỗi cá nhân tiến bộ, gương mẫu hơn, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đã thành công tốt đẹp với
một khối lượng công việc rất lớn. Chúng ta đã bàn và nhất trí cao về
nhiều chủ trương, chính sách quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế – xã
hội, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ và xây dựng Đảng, kể cả
việc quyết định thành lập lại Ban Kinh tế Trung ương; và lần đầu tiên
tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn rất thành công trong không khí
dân chủ, thẳng thắn và xây dựng.
Thành công của Hội nghị, ngoài sự đóng góp tích cực của các đồng chí
Trung ương, các cơ quan và cán bộ tham mưu, giúp việc, còn có phần đóng
góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước, đặc
biệt là các đồng chí cán bộ lão thành, các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà
khoa học, những người luôn luôn quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng và có
nhiều ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trí tuệ cho công việc chung của
Đảng.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trân trọng cảm ơn
những tình cảm và sự đóng góp vô cùng quý báu đó.
Tôi tin tưởng rằng,
với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng,
trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng
hộ hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta
sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị
Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng.
Tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc, hoàn thành xuất
sắc trọng trách trước Đảng và nhân dân với niềm tin và khí thế mới.
Xin trân trọng cảm ơn!..
(Nguồn: VietnamNet)
-------------------------
* Hình ảnh chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến nội dung bài đăng trên VNN