Đàm Hà Phú -... Kính tặng Giáo Sư Lợi
Thực ra không ai biết lý do từ đâu họ gọi ông là Giáo Sư, chỉ một số người lớn trong hẻm biết, biết nhiều nhứt có lẽ là Tư Danh.
Nhưng cũng không mấy người muốn nói, đại khái cư dân trong hẻm biết rằng đó là một người đàn ông lịch lãm, trí tuệ và nghiện rượu.
Họ gọi ông là Giáo Sư vì nghe đâu trước đây ông có dạy học ở Đại Học Sài Gòn, gọi riết thành quen tên, Giáo Sư thành như tên của ông, đến nỗi cái quán nhậu không tên chỗ ông hay ngồi ở ngã ba của hẻm cũng dần dần bị gọi là quán Giáo Sư, hay ông xe ôm hay chở ông đi đây đi đó cũng bị gọi luôn là xe ôm Giáo Sư.
Trong hẻm, sau Tư Danh thì vợ chồng anh Tư Xe Ôm luôn được Giáo Sư tín cẩn nhứt.
Giáo Sư dáng cao ráo, có lẽ đã ngoài bảy mươi, mái tóc bạc lưa thưa nhưng luôn được chải nếp cẩn thận, trên túi áo ngực của ông luôn có một cây lược nhỏ, được gài chung với một cây bút pa ke chánh hiệu.
Trừ những lúc quanh quẩn trong nhà thì hầu như lúc nào ông xuất hiện cũng bảnh bao, dù chỉ là loanh quanh trong hẻm rồi đi uống rượu, quần khaki màu sáng, áo sơ mi trắng ngắn tay có áo lót phía trong, giày xăng đan có quai hậu.
Ông luôn đi đứng khoan thai, ánh mắt luôn toát lên nụ cười tươi, dù có tỉnh hay say thì cũng ít ai thấy ông không cười.
Ông nói giọng bắc, thứ giọng bắc năm tư đã pha trộn, người trong hẻm rất thích nghe ông nói chuyện, có người chỉ xin ông nói đi nói lại chữ “Xài Goòng”, nghe đã lỗ nhĩ gì đâu.
Nhìn bề ngoài ông khác hẳn với những người còn lại trong hẻm, nói chung nếu bất chợt nhìn lại một cách dò xét, ông như một mẫu người lưu cữu từ đầu thế thế kỷ 20.
Cư dân trong hẻm ai cũng mến Giáo Sư.
Ông thường xuất hiện từ 10 giờ sáng, đi một vòng hẻm, chào hỏi hết thảy mọi người, bất kể nam phụ lão ấu, ông luôn chào họ với kiểu chào cũng lịch lãm không kém, hơi cúi đầu và nghiêng mình kiểu một quí tộc châu âu thời trung cổ: "Chào cô Sáu, hôm nay khỏe hả cô Sáu, chào chị Hai, hôm nay khỏe hả chị Hai!"… tất nhiên cư dân trong hẻm không ai lại đi đối đáp với ông theo kiểu cách dị kỳ của ông, họ chỉ mỉm cười hoặc gật đầu, lễ phép hơn thì họ “Cảm ơn Giáo Sư!”, vậy thôi.
Ông ăn một dĩa cơm tấm hoặc một tô hủ tíu, đó là bữa sáng kiêm luôn bữa trưa của ông, rồi ông ra quán Tư Danh uống café.
Quán Tư Danh không có ghế nhựa, dù là quán bình dân nhưng bàn ghế mây, kiểu mây từ xưa cũ, đó là quán ông thích.
Khi Giáo Sư vào thì ông ngồi chỗ quen, con Lành phục vụ sẽ đem cho ông một ly café đen không đường, rồi nó vào mở một trong mấy cái đĩa nhạc ông thích.
Đôi khi Tư Danh ra ngồi với ông, ngôi thinh vậy thôi, không nói câu nào.
Bất luận trong hẻm ai ra hay vào quán Tư Danh, nếu có ông ở đó thì phải luôn chào ông.
Mỗi khi có người chào mình, Giáo Sư sẽ kéo ghế, đứng dậy, nghiêng mình đáp lễ.
Đôi khi ông ngủ trưa luôn trong quán café hoặc về nhà ngủ chút.
Buổi chiều xế là ông ra quán nhậu. Gu của ông cũng lạ, ông sẽ uống bia Sài Gòn, không đá, mỗi ly bia sẽ pha với một ly rượu nhỏ.
Ít khi ông ngồi một mình, thường thì anh Tư Xe Ôm sẽ ngồi với ông, hoặc luôn có một người khách nào đó, ở đâu đó, chạy xe máy hoặc đi xe ôm tới, ngồi uống cùng ông.
Đôi lúc trong cuộc rượu ông nói chuyện bằng tiếng Pháp, có lúc lại nói tiếng Anh, đa phần lúc say ông sẽ nói tiếng Pháp nhiều hơn.
Tùy bữa uống nhiều uống ít, nhưng ông thường về nhà tầm 9h tối.
Không bao giờ lè nhè hay chân nam đá chân xiêu như những kẻ say khác, Giáo Sư vẫn đi khoan thai, vẫn chào hỏi mọi người trước khi vào nhà.
Giáo Sư sống một mình, bà vợ ông đã mất mấy năm trước.
Giáo Sư có hai người con, một gái một trai, con trai ông sống ở Mỹ còn cô con gái sống ở Canada, họ đều ở chỗ rất lạnh.
Mỗi năm hai người con thường phân công về thăm ông ít nhất một lần, đem theo dâu rể và mấy đứa cháu ông.
Họ không gọi ông ba, cha hay tía, gọi ông là papa.
Họ ít giao du với cư dân trong hẻm, nhưng cũng như ông, họ rất lịch thiệp.
Đôi khi nói chuyện với ai đó, họ thường thanh minh rằng: "Papa không chịu qua bển với tụi này, papa sợ lạnh!".
Giáo Sư cũng hay đỡ lời cho con mình, ông nói: "Mấy đứa nó kêu tôi qua bên đó (À, ông là người hiếm hoi vẫn xưng “tôi”), nhưng tôi không đi, bển lạnh lắm, có lúc dưới dê rô luôn, tôi già rồi, chịu lạnh không được!".
Một lần, lúc uống rượu với Tư Xe Ôm, Giáo Sư mời vợ chồng Tư Xe Ôm về ở chung.
Vợ chồng anh Tư cũng dễ thương, anh Tư trước làm bốc xếp ở chợ đầu mối, rồi tham gia đánh nhau, bị đi tù hết mấy năm.
Ra tù thì mất nhà, nên vợ chồng thuê cái nhà trọ cuối hẻm, anh Tư chạy xe xôm còn chị vợ thì bán xe thuốc lá ngoài lộ.
Anh Tư có một đứa con trai, nhưng nó lấy vợ ở miệt Bạc Liêu, nhà vợ có nhiều công chuyện mà ít con trai nên thằng con anh bị bắt rể luôn ở dưới, lâu lâu nó đón xe về, cho anh anh chị tiền bạc, vài ký tôm cua, vậy thôi.
Mấy bữa sau đó thấy vợ chồng Tư Xe Ôm trả nhà trọ, qua nhà ở luôn với Giáo Sư.
Từ có chị Tư lo cơm nước, Giáo Sư không ăn ở ngoài nữa, nhưng rượu thì vẫn uống ở quán.
Mới đầu, khi biết nhà mình có anh chị Tư qua ở với papa, hai người con của Giáo Sư cũng vui, thậm chí ngỏ lời biết ơn anh chị Tư, đi về thể nào cũng quá cáp như ân nhân.
Nhưng một hôm, lúc Giáo Sư say rượu, ông nói rằng ông thật vui vì có anh chị Tư ở chung, rằng vài bữa ông chết sẽ cho lại cái nhà này cho anh chị Tư.
Từ sau câu nói đó, hai người con của Giáo Sư về thường hơn, những lúc anh chị Tư vắng nhà thì họ tranh cãi với Giáo Sư nhiều hơn, họ nói rất nhỏ, còn Giáo Sư thì thường hét lên giận dữ, nhưng cũng không ai biết họ nói chuyện gì, vì thường Giáo Sư sẽ nói bằng tiếng Anh, hoặc tiếng Pháp.
Đó là lần hiếm hoi họ thấy Giáo Sư nổi giận, dù hai người con luôn tỏ vẻ kính trọng, lễ phép với ông.
Sau đợt cãi nhau đó, cô con gái hầu như về ở hẳn với Giáo Sư , còn anh chị Tư lại dọn ra nhà trọ ở.
Cô con gái cấm hẳn ông uống rượu, nói cấm thì hơi quá nhưng cô hầu như chặn cửa không cho ông ra ngoài.
Thi thoảng lắm, lúc cô đi với bạn, ông tranh thủ ra quán chút, dù không được lịch sự như trước, chỉ với bộ đồ pi da ma và đôi dép, tranh thủ làm vài ly bia pha với rượu rồi về, cái dáng đi không còn khoan thai, mà lật đật trông tội nghiệp.
Cô con gái của ông thật cao tay, là cô đôi lúc cũng tự nhận mình như thế, cô ngăn được ông uống rượu là việc nhỏ, việc lớn hơn là cô thuyết phục ông sang tên lại ngôi nhà ông đang ở cho một người cậu, là em của mẹ cô, đang ở miệt Thủ Đức.
Giáo Sư biết việc này, ông buồn lắm, nhưng ông không nói gì, thuận theo luôn.
Rồi Giáo Sư bịnh.
Ông nằm viện gần một tháng ròng, khi về nhà thì ông ốm hơn trước rất nhiều, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ tươi cười như cũ.
Cô con gái phải quay về Canada sau một tháng vất vả chăm ông.
Người ta lại thấy ông như xưa, xuất hiện lúc 10h sáng, lịch lãm đến kỳ dị, và uống bia pha rượu với chú Tư vào buổi chiều.
Lịch lãm trở lại được hơn tuần lễ nữa thì Giáo Sư mất.
Chỉ có Tư Danh là biết, nhắn với Tư Danh trước, rồi bấm máy gọi cho con xong là ông đi.
Khi các con ông về, thì mọi người trong hẻm đang lo hậu sự cho ông chu đáo.
Khách tới viếng Giáo Sư đông vô kể, xe máy xe hơi đậu tràn hẻm.
Vợ chồng Tư Xe Ôm đeo tang trắng tiếp khách, như hai người con của ông.
Hôm đưa ông đi thiêu, cả hẻm đều đi, bọn thanh nên đi xe máy, còn người già đi hai chiếc xe bus lớn, rồng rắn đi tiễn ông.
Đến mấy ngày sau khi ông đi rồi, ở quán Tư Danh vẫn để ly café đen không đường ở chỗ cũ, ở quán Giáo Sư vẫn có một ly bia Sài Gòn, không đá, pha với một ly rượu nhỏ, cho ông.
Chừng hơn tháng sau khi Giáo Sư mất, Tư Danh kêu Tư Xe ôm qua nhà, đưa một bọc tiền.
Tư Danh nói: "Giáo Sư dặn là khi nào ổng chết mới đưa, đây là số tiền ổng để dành từ lúc con cái ổng gửi tiền về cho, có bao nhiêu ổng đưa tao giữ hết, không nhiều nhưng chắc đủ mua cái nhà, ở Gò Vấp hay đâu đó, cho vợ chồng bây có chỗ mà ở. Giáo Sư đã nói lời là giữ lời!".
Vợ chồng Tư Xe Ôm sụm xuống, khóc ồ ồ như con nít.
-----------------
* Hình ảnh cuộc sống và những gương mặt người dân Sài Gòn của tác giả Nhật Quang, chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến nội dung bài viết.
Thực ra không ai biết lý do từ đâu họ gọi ông là Giáo Sư, chỉ một số người lớn trong hẻm biết, biết nhiều nhứt có lẽ là Tư Danh.
Nhưng cũng không mấy người muốn nói, đại khái cư dân trong hẻm biết rằng đó là một người đàn ông lịch lãm, trí tuệ và nghiện rượu.
Họ gọi ông là Giáo Sư vì nghe đâu trước đây ông có dạy học ở Đại Học Sài Gòn, gọi riết thành quen tên, Giáo Sư thành như tên của ông, đến nỗi cái quán nhậu không tên chỗ ông hay ngồi ở ngã ba của hẻm cũng dần dần bị gọi là quán Giáo Sư, hay ông xe ôm hay chở ông đi đây đi đó cũng bị gọi luôn là xe ôm Giáo Sư.
Trong hẻm, sau Tư Danh thì vợ chồng anh Tư Xe Ôm luôn được Giáo Sư tín cẩn nhứt.
Giáo Sư dáng cao ráo, có lẽ đã ngoài bảy mươi, mái tóc bạc lưa thưa nhưng luôn được chải nếp cẩn thận, trên túi áo ngực của ông luôn có một cây lược nhỏ, được gài chung với một cây bút pa ke chánh hiệu.
Trừ những lúc quanh quẩn trong nhà thì hầu như lúc nào ông xuất hiện cũng bảnh bao, dù chỉ là loanh quanh trong hẻm rồi đi uống rượu, quần khaki màu sáng, áo sơ mi trắng ngắn tay có áo lót phía trong, giày xăng đan có quai hậu.
Ông luôn đi đứng khoan thai, ánh mắt luôn toát lên nụ cười tươi, dù có tỉnh hay say thì cũng ít ai thấy ông không cười.
Ông nói giọng bắc, thứ giọng bắc năm tư đã pha trộn, người trong hẻm rất thích nghe ông nói chuyện, có người chỉ xin ông nói đi nói lại chữ “Xài Goòng”, nghe đã lỗ nhĩ gì đâu.
Nhìn bề ngoài ông khác hẳn với những người còn lại trong hẻm, nói chung nếu bất chợt nhìn lại một cách dò xét, ông như một mẫu người lưu cữu từ đầu thế thế kỷ 20.
Cư dân trong hẻm ai cũng mến Giáo Sư.
Ông thường xuất hiện từ 10 giờ sáng, đi một vòng hẻm, chào hỏi hết thảy mọi người, bất kể nam phụ lão ấu, ông luôn chào họ với kiểu chào cũng lịch lãm không kém, hơi cúi đầu và nghiêng mình kiểu một quí tộc châu âu thời trung cổ: "Chào cô Sáu, hôm nay khỏe hả cô Sáu, chào chị Hai, hôm nay khỏe hả chị Hai!"… tất nhiên cư dân trong hẻm không ai lại đi đối đáp với ông theo kiểu cách dị kỳ của ông, họ chỉ mỉm cười hoặc gật đầu, lễ phép hơn thì họ “Cảm ơn Giáo Sư!”, vậy thôi.
Ông ăn một dĩa cơm tấm hoặc một tô hủ tíu, đó là bữa sáng kiêm luôn bữa trưa của ông, rồi ông ra quán Tư Danh uống café.
Quán Tư Danh không có ghế nhựa, dù là quán bình dân nhưng bàn ghế mây, kiểu mây từ xưa cũ, đó là quán ông thích.
Khi Giáo Sư vào thì ông ngồi chỗ quen, con Lành phục vụ sẽ đem cho ông một ly café đen không đường, rồi nó vào mở một trong mấy cái đĩa nhạc ông thích.
Đôi khi Tư Danh ra ngồi với ông, ngôi thinh vậy thôi, không nói câu nào.
Bất luận trong hẻm ai ra hay vào quán Tư Danh, nếu có ông ở đó thì phải luôn chào ông.
Mỗi khi có người chào mình, Giáo Sư sẽ kéo ghế, đứng dậy, nghiêng mình đáp lễ.
Đôi khi ông ngủ trưa luôn trong quán café hoặc về nhà ngủ chút.
Buổi chiều xế là ông ra quán nhậu. Gu của ông cũng lạ, ông sẽ uống bia Sài Gòn, không đá, mỗi ly bia sẽ pha với một ly rượu nhỏ.
Ít khi ông ngồi một mình, thường thì anh Tư Xe Ôm sẽ ngồi với ông, hoặc luôn có một người khách nào đó, ở đâu đó, chạy xe máy hoặc đi xe ôm tới, ngồi uống cùng ông.
Đôi lúc trong cuộc rượu ông nói chuyện bằng tiếng Pháp, có lúc lại nói tiếng Anh, đa phần lúc say ông sẽ nói tiếng Pháp nhiều hơn.
Tùy bữa uống nhiều uống ít, nhưng ông thường về nhà tầm 9h tối.
Không bao giờ lè nhè hay chân nam đá chân xiêu như những kẻ say khác, Giáo Sư vẫn đi khoan thai, vẫn chào hỏi mọi người trước khi vào nhà.
Giáo Sư sống một mình, bà vợ ông đã mất mấy năm trước.
Giáo Sư có hai người con, một gái một trai, con trai ông sống ở Mỹ còn cô con gái sống ở Canada, họ đều ở chỗ rất lạnh.
Mỗi năm hai người con thường phân công về thăm ông ít nhất một lần, đem theo dâu rể và mấy đứa cháu ông.
Họ không gọi ông ba, cha hay tía, gọi ông là papa.
Họ ít giao du với cư dân trong hẻm, nhưng cũng như ông, họ rất lịch thiệp.
Đôi khi nói chuyện với ai đó, họ thường thanh minh rằng: "Papa không chịu qua bển với tụi này, papa sợ lạnh!".
Giáo Sư cũng hay đỡ lời cho con mình, ông nói: "Mấy đứa nó kêu tôi qua bên đó (À, ông là người hiếm hoi vẫn xưng “tôi”), nhưng tôi không đi, bển lạnh lắm, có lúc dưới dê rô luôn, tôi già rồi, chịu lạnh không được!".
Một lần, lúc uống rượu với Tư Xe Ôm, Giáo Sư mời vợ chồng Tư Xe Ôm về ở chung.
Vợ chồng anh Tư cũng dễ thương, anh Tư trước làm bốc xếp ở chợ đầu mối, rồi tham gia đánh nhau, bị đi tù hết mấy năm.
Ra tù thì mất nhà, nên vợ chồng thuê cái nhà trọ cuối hẻm, anh Tư chạy xe xôm còn chị vợ thì bán xe thuốc lá ngoài lộ.
Anh Tư có một đứa con trai, nhưng nó lấy vợ ở miệt Bạc Liêu, nhà vợ có nhiều công chuyện mà ít con trai nên thằng con anh bị bắt rể luôn ở dưới, lâu lâu nó đón xe về, cho anh anh chị tiền bạc, vài ký tôm cua, vậy thôi.
Mấy bữa sau đó thấy vợ chồng Tư Xe Ôm trả nhà trọ, qua nhà ở luôn với Giáo Sư.
Từ có chị Tư lo cơm nước, Giáo Sư không ăn ở ngoài nữa, nhưng rượu thì vẫn uống ở quán.
Mới đầu, khi biết nhà mình có anh chị Tư qua ở với papa, hai người con của Giáo Sư cũng vui, thậm chí ngỏ lời biết ơn anh chị Tư, đi về thể nào cũng quá cáp như ân nhân.
Nhưng một hôm, lúc Giáo Sư say rượu, ông nói rằng ông thật vui vì có anh chị Tư ở chung, rằng vài bữa ông chết sẽ cho lại cái nhà này cho anh chị Tư.
Từ sau câu nói đó, hai người con của Giáo Sư về thường hơn, những lúc anh chị Tư vắng nhà thì họ tranh cãi với Giáo Sư nhiều hơn, họ nói rất nhỏ, còn Giáo Sư thì thường hét lên giận dữ, nhưng cũng không ai biết họ nói chuyện gì, vì thường Giáo Sư sẽ nói bằng tiếng Anh, hoặc tiếng Pháp.
Đó là lần hiếm hoi họ thấy Giáo Sư nổi giận, dù hai người con luôn tỏ vẻ kính trọng, lễ phép với ông.
Sau đợt cãi nhau đó, cô con gái hầu như về ở hẳn với Giáo Sư , còn anh chị Tư lại dọn ra nhà trọ ở.
Cô con gái cấm hẳn ông uống rượu, nói cấm thì hơi quá nhưng cô hầu như chặn cửa không cho ông ra ngoài.
Thi thoảng lắm, lúc cô đi với bạn, ông tranh thủ ra quán chút, dù không được lịch sự như trước, chỉ với bộ đồ pi da ma và đôi dép, tranh thủ làm vài ly bia pha với rượu rồi về, cái dáng đi không còn khoan thai, mà lật đật trông tội nghiệp.
Cô con gái của ông thật cao tay, là cô đôi lúc cũng tự nhận mình như thế, cô ngăn được ông uống rượu là việc nhỏ, việc lớn hơn là cô thuyết phục ông sang tên lại ngôi nhà ông đang ở cho một người cậu, là em của mẹ cô, đang ở miệt Thủ Đức.
Giáo Sư biết việc này, ông buồn lắm, nhưng ông không nói gì, thuận theo luôn.
Rồi Giáo Sư bịnh.
Ông nằm viện gần một tháng ròng, khi về nhà thì ông ốm hơn trước rất nhiều, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ tươi cười như cũ.
Cô con gái phải quay về Canada sau một tháng vất vả chăm ông.
Người ta lại thấy ông như xưa, xuất hiện lúc 10h sáng, lịch lãm đến kỳ dị, và uống bia pha rượu với chú Tư vào buổi chiều.
Lịch lãm trở lại được hơn tuần lễ nữa thì Giáo Sư mất.
Chỉ có Tư Danh là biết, nhắn với Tư Danh trước, rồi bấm máy gọi cho con xong là ông đi.
Khi các con ông về, thì mọi người trong hẻm đang lo hậu sự cho ông chu đáo.
Khách tới viếng Giáo Sư đông vô kể, xe máy xe hơi đậu tràn hẻm.
Vợ chồng Tư Xe Ôm đeo tang trắng tiếp khách, như hai người con của ông.
Hôm đưa ông đi thiêu, cả hẻm đều đi, bọn thanh nên đi xe máy, còn người già đi hai chiếc xe bus lớn, rồng rắn đi tiễn ông.
Đến mấy ngày sau khi ông đi rồi, ở quán Tư Danh vẫn để ly café đen không đường ở chỗ cũ, ở quán Giáo Sư vẫn có một ly bia Sài Gòn, không đá, pha với một ly rượu nhỏ, cho ông.
Chừng hơn tháng sau khi Giáo Sư mất, Tư Danh kêu Tư Xe ôm qua nhà, đưa một bọc tiền.
Tư Danh nói: "Giáo Sư dặn là khi nào ổng chết mới đưa, đây là số tiền ổng để dành từ lúc con cái ổng gửi tiền về cho, có bao nhiêu ổng đưa tao giữ hết, không nhiều nhưng chắc đủ mua cái nhà, ở Gò Vấp hay đâu đó, cho vợ chồng bây có chỗ mà ở. Giáo Sư đã nói lời là giữ lời!".
Vợ chồng Tư Xe Ôm sụm xuống, khóc ồ ồ như con nít.
-----------------
* Hình ảnh cuộc sống và những gương mặt người dân Sài Gòn của tác giả Nhật Quang, chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến nội dung bài viết.
Ông Tư Danh cũng tốt bụng như Giáo Sư. Nếu ông Tư mà giữ luôn bọc tiền thì đâu ai biết. Một nén nhang cho Giáo Sư và một lời cảm ơn ông Tư. (Rose Tran)
Trả lờiXóaMột, à không. Những con người rất đẹp
Trả lờiXóaSống đẹp!
Trả lờiXóa