30 tháng 12, 2013

NƠI ẤY LÀ TRƯỜNG SA

TNO - Bao năm rồi, cứ dịp gần Noel, Tết Dương lịch, trong khi mọi người náo nức rộn ràng chờ đón những ngày nghỉ lễ, đoàn tụ hạnh phúc bên nhau thì những người lính đảo lại vượt hàng trăm hải lý bập bùng sóng gió ra với biên đảo xa xôi, thay quân, chuyển hàng Tết.

Khó có thể tả nổi những tâm trạng, cung bậc tình cảm của những người bỏ lại phía sau mọi đầy đủ, sung sướng, hạnh phúc để ra nơi tuyến đầu làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, giữ gìn bình yên cho hậu phương.

Có một điều mà ai ra tiễn lính đảo cũng thấy, đó là lẽ sống cao cả, vì người thân - đồng bào và vì cả cái nơi biển xanh thăm thẳm nằm chót vót ngoài khơi xa kia nữa. Nơi đó được gọi là Trường Sa.

1. Đại úy Nguyễn Văn Quang, quê Tiên Lãng (TP Hải Phòng), năm nay ra nhận công tác tại đảo Sinh Tồn Đông, dịp trước Tết nguyên đán. Vợ Quang tên Nga cũng người Hải Phòng, hiện đang là phóng viên tại Ban Dân tộc, Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tiếng là vợ chồng cùng quê, nhưng cả năm mới gặp nhau được 1-2 lần. Hôm trước khi tôi đi công tác Trường Sa, Nga đưa con gái tên Bống chưa tròn 20 tháng, chạy xe máy từ Long Biên sang, giữa chiều rét miền Bắc tím lịm, cắt da cắt thịt, để nhờ gửi cho chồng đang huấn luyện trong Đoàn Trường Sa, trước ngày ra đảo một gói quà nhỏ, bọc rất kỹ.

Ngồi nói chuyện với nhau, Nga kể: “Em đang thuê nhà trên này. Thường thì sáng đi làm, đưa con tới lớp, chiều hết giờ đón về. Khi nào đi công tác, lại phải xin cơ quan nghỉ một ngày đưa con về quê gửi ông bà, bởi trên này không có họ hàng, người nhà để gửi cháu!” và nghèn nghẹn: “Chồng dưới biển, vợ trên rừng, con ở với ông bà là chính!”, rồi tất tưởi xin phép đưa con về, hình như để giấu giọt nước mắt chực rơi.

Buổi chiều trước giờ 3 chuyến tàu Hải quân HQ-571; HQ-996; HQ-936 rời khỏi Quân cảng Cam Ranh, khi bộ đội tập trung hết trên cảng, chờ lên tàu, Quang hối hả gọi điện cho tôi: “Anh ơi! Anh ở đâu đấy, giờ em mới có thời gian nhận quà của vợ con gửi!”.

Nhận gói quà của vợ, Quang ôm chặt vào trong ngực, ngay giữa biển tên - phù hiệu lính Hải quân, dưới gọn gàng cấp hàm Đại úy mới cứng, thành thật: “Vợ em gửi mấy cân thuốc lào quê hương, làm quà cho anh em đón Xuân ngoài đảo!” và chầm chậm từng âm tiết: “Quan trọng hơn là cái áo của con gái, ôm cho đỡ nhớ bởi mấy năm nữa, mới về được đất liền gặp con!”.

Tôi vội vàng in tấm hình chụp vợ con Quang hôm gửi quà, tặng người lính Hải quân, Quang hôn ngay giấy ảnh còn ấm mùi mực in và ấp vào ngực trái, chào tôi như những người lính, tất tưởi chạy lên cầu tàu HQ-936 đang loảng xoảng tiếng xích rút cầu. Thoắt cái, đã thấy Quang ở bên mạn trái, đứng giữa đồng đội ra đảo, một tay bíu chặt lan can, tay kia vẫn áp tấm ảnh vợ con trên ngực, thiêng liêng.

2. Trung úy Mai Văn An (quê Thanh Hóa, nhưng đã đưa vợ con vào sống tại Mỹ Ca, Khánh Hòa, phía ngoài căn cứ Cam Ranh). An hiện đang công tác tại tàu HQ-571 (Hải đội 411, Vùng 4 - Hải quân), nhưng đã rất nhiều năm công tác tại nhiều tàu chiến đấu, tàu vận tải bảo đảm và ra với Trường Sa, không biết bao nhiêu lần.

Trước hôm tàu rời Quân cảng, không chỉ An mà tất cả cán bộ - thuyền viên trên tàu HQ-571 túi bụi các công việc chuẩn bị cho chuyến đi biển dài ngày, nhận xếp hàng Tết, đón bộ đội…

Gần nhà đấy, nhưng mãi tối 20.12 An mới được tranh thủ về nhà mấy tiếng đồng hồ trước khi đi biển, tạm biệt vợ con.

Hôm sau, gặp An dưới tàu, thấy mặt mũi hốc hác, mình hỏi mới biết: Đêm qua con gái sốt, An bế con chăm sóc cả đêm và buổi sáng, vợ bắt buộc phải đi làm nên An thay vợ bế con ra Bệnh viện khám cấp cứu.

Mà lạ nỗi, khu vực Mỹ Ca là “Trung tâm hậu phương Hải quân”, việc bộ đội đi Trường Sa là bình thường, nên nhân viên chỗ cấp cứu cũng tưng tửng đòi “đúng quy trình, thủ tục”, khiến An lại phải hùng hục bế con ra chỗ khác khám, cho yên tâm, mới trao lại con cho vợ, phóng xe vào căn cứ, kịp giờ tập trung chuẩn bị ra đảo.

An trầm giọng: “Con ốm vợ trẻ, đi như này cũng thấy mình không tròn nghĩa vụ với vợ con - gia đình, nhưng nếu xin ở lại, cả tập thể tàu lại phải làm phần việc của mình, trong khi anh em đều vất vả lo bao công việc, những gần một tháng, trong điều kiện thời tiết mưa to gió lớn!”.

Hình như, An cũng tự động viên cả bản thân lẫn tôi là người nghe, về những năm làm nhiệm vụ trên các tàu trực bảo vệ Trường Sa đến vài tháng, với những câu chuyện mà chỉ những người lính tàu mới phải trải qua. Nào là: loanh quanh trên diện tích tàu chật hẹp liên tục mấy tháng, trời nắng cả con tàu như nằm trong lò nung, trời mưa gió - giông bão, con tàu trở thành đồ chơi cho sóng biển, chơi trò tung hứng, dìm xuống đẩy lên bằng những con sóng dài, cao cả chục mét; những ngày thiếu nước, mỗi người chỉ được phát một xô nước dùng trong mấy ngày…

Nghe chuyện của An và nhìn vào mắt An, tự dưng cảm giác bất an khi ra khơi mùa biển động, sóng cấp 7-8 tự dưng tan biến, bởi tính mạng được đặt vào tay những người dày dặn giữ Trường Sa.

3. Thiếu tá Nguyễn Quang Hiếu, Trợ lý Cơ yếu Lữ đoàn 146 (Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân), đang đóng quân ở Cam Ranh, nhưng vợ con vẫn ở Nghĩa Trung, Nghĩa Hưng, Nam Định.

Nhắc đến Hiếu, mọi cán bộ chiến sĩ trong Lữ đoàn đều biết bởi hoàn cảnh gia đình của Hiếu quá vất vả: con gái đầu Nguyễn Thị Minh Châu, sinh năm 2008 bị bệnh hiểm nghèo về tim (Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E chẩn đoán “sau mổ Glenn/TBS phức tạp” và dự kiến phương pháp điều trị “xét phẫu thuật Fantan); con gái sau cũng mới sinh được vài tháng; vợ nghỉ không lương ở nhà trông hai con và nuôi bố mẹ Hiếu 83 tuổi già yếu…

Vất vả như vậy, nhưng Hiếu là một trong những người thường xuyên phải thực hiện các chuyến công tác ngoài đảo, mỗi năm 3-5 lần để làm nhiệm vụ chuyên ngành. Các chuyến đưa các Đoàn Dân - Chính - Đảng thì bình thường, nhưng những chuyến đặc biệt như dịp cuối năm này, Hiếu xin thủ trưởng đơn vị cho tranh thủ nghỉ vài ngày, đi xe khách về thăm vợ con, để yên tâm ra đảo cả tháng trời.

Gặp nhau trên Quân cảng trước lúc chia tay, Hiếu nắm chặt tay tôi rắn rỏi: “Vẫn còn nhiều anh em có trường hợp khó khăn như mình, thậm chí hơn mình nhưng vẫn cố gắng, làm tốt nhiệm vụ ngoài đảo. Mình chỉ làm nhiệm vụ đảm bảo, mỗi năm đi vài lần, tại sao không vượt lên tất cả, cùng đồng đội?”…
***
Có rất nhiều bài hát về Trường Sa, nhưng lính đảo thường nhẩm câu hát: “Phía xa xa chân trời nghìn trùng sóng gió. Có những con người thay chúng ta đang vượt qua ngọn sóng vươn tới chân trời, giữ lấy nơi biên cương chưa bình yên của mọi người…”.

Trên chuyến tàu HQ-571 chở cán bộ chiến sĩ thay quân các đảo và chuyển hàng Tết lần này, lời hát “Nơi ấy là Trường Sa” của tác giả Xuân Nghĩa cũng liên tục vang lên trên hệ thống loa phóng thanh, như thể nắm tay cổ vũ - động viên cho con tàu giương cao mũi, ngụp qua sóng cấp 7 - cấp 8, vượt dặm dài hải trình đi biển.

Và cùng với những vòng lăn sóng thân tàu, những người lính biển - lính tàu cũng thì thầm từ chính trái tim mình lời thề - lời hứa giữ trọn địa đầu, bởi: NƠI ẤY LÀ TRƯỜNG SA!..

LÁT ĐÁ GIỮA BIỂN TRỜI

TNO - Ngoi lên ngụp xuống suốt 2 ngày đêm vượt sóng gió cấp 7 - cấp 8, cuối cùng trước mũi tàu HQ-571 cũng hiện ra bãi san hô ngờm ngợp sóng trắng. Thiếu tá, thuyền trưởng Phạm Xuân Hải bảo:  “Đảo chìm Đá Lát - điểm đầu chúng ta đến!”...

Đảo Đá Lát cách đảo Trường Sa (Trường Sa Lớn) 14 hải lý về phía tây và cách Cam Ranh 248 hải lý. Nhìn trên bản đồ, đây là đảo gần đất liền nhất trong toàn quần đảo Trường Sa.

Đảo Đá Lát là bãi san hô khép kín, phía trong có một hồ. Khi nước thủy triều lên, bãi Đá Lát nằm chìm trong nước biển, nhưng khi thủy triều xuống, những bãi nhỏ - đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước rất nguy hiểm và chỉ có những tay lái xuồng CQ thiện nghệ của đảo, xuồng chuyển tải của tàu mới dám đi lại.

Đặc biệt, đảo Đá Lát là nơi có nhiều xác tàu đắm nằm trên các bãi cát, nên từ xa bằng mắt thường và ra đa, rất dễ dàng nhận ra đảo, bởi các chấm đen buồng lái - tháp tàu lô nhô xung quanh.

Tết đến từ vị lá dong

Vào với Đá Lát, dịp các đoàn Dân chính đảng nườm nượp ra thăm trong mùa “tháng ba bà già đi biển”, khách khứa ngồi trên xuồng chuyển tải, lạch tạch chạy từ ngoài biển vào đảo, hết thảy đều ồ à reo mừng thích thú khi nhìn đáy nước thấy lửng lơ rong biển, tinh khôi cát trắng và san hô rực rỡ các màu.

Nhưng mùa biển động gần tết này, vào được với Đá Lát là chuyện không hề đơn giản. Loay hoay, thận trọng cả tiếng đồng hồ, tàu HQ-571 mới tìm được vị trí neo thích hợp.

Mãi đến 14 giờ, một số cán bộ Quân chủng, Vùng 4 Hải quân, Lữ đoàn 146 và 6 phóng viên báo chí có kinh nghiệm đi biển, được lựa chọn kỹ càng mới được lên xuồng vào Đá Lát, đồng thời với hoạt động thay - đổi quân, vận chuyển hàng tết, lương thực - thực phẩm cho đảo.

Sóng cao đến 2 m lừng lững theo nhau ập vào mũi xuồng, khiến xuồng tung ngược lên chừng 15 - 20 độ, ai nấy mặt cắt không còn hạt máu nhưng vẫn ngồi im phăng phắc, theo khẩu lệnh của người lái: “Động đậy là chết hết!”. Chỉ khi đi qua mép xanh vào bãi san hô, xuồng chạy cân bằng trong vùng sóng nhỏ, tiếng thở phào mới nhất loạt òa ra từ những gương mặt ướt lướt thướt, chân tay tím ngắt vì ngâm lạnh và vì níu chặt vào chân ghế - thành xuồng.

Cập đảo, nhất loạt bộ đội lội xuống nước, răng đánh cầm cập, môi tím ngắt giữ xuồng.

Ở cái đảo chìm bé tí như mắt muỗi giữa bung biêng trời nước này, phải kể đến 3 đặc trưng: diện tích nhỏ nhất, sách vở nhiều nhất và bãi san hô nhiều “cá mú, nghêu sò ốc hến” nhất.

Lạ! Chả ở điểm đảo chìm nào sách vở nhiều như ở Đá Lát: Tủ sách đóng bằng gỗ thùng đạn ngoài hiên, sát cầu thang hẹp lên xuống; sách xếp đầy tràn phòng, che hết cả những khung tròn - bầu dục - vuông in logo la liệt, biểu tượng của các thể loại quà tặng từ tỉnh thành - bộ ngành mang ra tặng đảo, cứ như thể cái điểm đảo bằng mắt muỗi này là bảo tàng, nơi trưng bày hiện vật; sách xếp tầng trong phòng ngủ, dưới chân giường cá nhân chả đủ một người nằm nghiêng...

Thượng úy Vũ Đức Quỳnh, Chỉ huy trưởng của đảo năm nay phải ở lại trực tết, đôn đáo tiếp đoàn, bàn giao, tiễn người cũ, đón người mới nhưng vẫn không quên dẫn mình ra thăm mấy vườn rau bịt bùng kín mít bằng cả vải ni lông lẫn vỏ thùng đựng thịt hộp, hoa quả hộp và chỉ: “Tết năm nay, chắc không có rau xanh rồi, anh ạ!”. Nhìn vườn rau trơ khấc thùng đất, có chăng còn lại cũng chỉ lưa thưa mấy cọng già, mới thấm thía nỗi sung sướng của anh em, khi tàu chuyển vào cả xuồng, đầy những rau củ quả tươi, vác lá dong và nhất là chú lợn chừng 50 kg, để anh em đảo và hải đăng có một cái tết đầy đủ.

Cậu chiến sĩ tên Nam Hải, đợt này được thay quân về tết, tuy bị í ới gọi ra tàu, vẫn cố nán vác bó lá dong vào bếp cất kỹ, cười rất tươi: “Đây mới thực là tết chú à!” và hấp tấp kể: “Lá dong luộc lên, buộc quanh cột tre, đến ngày gói bánh chưng vẫn giữ được màu xanh và mùi thơm như thường, thích lắm!”.

Nghêu sò ốc hến

Ở Đá Lát, gì thì gì cũng phải nhắc đến chuyện “cá mú, nghêu sò ốc hến”.

Cũng bởi xa xôi, tách biệt lại nằm trên bãi san hô rộng ngút ngát, mỗi khi thủy triều xuống, cả bãi san hô và đá san hô lộ ra, nhô hết lên mặt nước nên các thể loại tôm cá, ốc sò ngu ngơ líu ríu không theo kịp con nước ra biển, cứ tênh hênh nằm ngửa nằm nghiêng nhìn giời và chờ... bộ đội rảnh rỗi, ra bắt cải thiện.

Đừng nghĩ là bộ đội thèm ăn hải sản.

Sống ở biển, giữa bãi san hộ được ví như “vựa hải sản tươi sống”, nhìn hải sản là chán (nhưng vẫn phải cắn răng mà nuốt, bởi nếu không lấy gì mà... ăn), việc đi nhặt ốc chủ yếu để phục vụ khách ra... xin vỏ.

Với Đá Lát, chuyện bị xin là thường, nên cứ ai cất tiếng xin, là lộn ngược ba lô gói cẩn thận tặng khách từng vỏ ốc biển to nhỏ.

Cho hết rồi, lại áy náy sợ đoàn khác đến, xin mà không có để kỷ niệm, nên cứ cuối ngày, giờ được nghỉ đấy nhưng vẫn quần đùi - giày vải, lội xuống biển, chịu san hô cứa vào người sắc như dao cạo, bắt nhặt từng con ốc, mẩu san hô mang về nâng niu đánh rửa, ngâm treo chờ khách ra để biếu tặng - ngẩn ngơ.

Mặn từng lát đá

Ở Đá Lát, đảo nhỏ hơn cả các đảo chìm khác (do xây từ nhà xưa, dạng Nhà lâu bền thế hệ cũ), nên căn bếp bên cửa trái cũng bé tí, cửa hỏng chốt nép sau ụ súng 12 li 7.

Khom người chui vào bếp, một nồi quân dụng vẫn đang lâm râm sôi trên bếp dầu nhỏ lửa khẽ khàng.

Mở vung, khoai tây hầm với bì heo đang lục sục sôi. Cậu chiến sĩ trẻ măng quệt mồ hôi: “Biết tàu ra, chúng cháu nấu nốt mấy củ khoai và ít bì - thịt heo, ăn dè từ tháng trước. Vừa nãy, các anh trên tàu có gửi mấy bao rau củ, thỏa sức... uống nước luộc rau trưa nay!”.

Mân mê túi hạt giống rau trên tay, chiến sĩ ra đa tên Hùng bảo: “Lẽ ra là phải trồng rau khay rồi đấy. Nhưng dịp này, phải huấn luyện căng thẳng, lại tập trung củng cố đảo trước mùa mưa bão, nên không có thời gian!” và nhấp nhổm: “Yên tâm, mấy hôm nữa anh em sẽ tập trung trồng rau và chăm rau. Đừng lo ngoài này bộ đội thiếu rau tươi, ít nhất thì cũng quen với măng hộp - giá đỗ rồi!”...

Nghe anh em nói an ủi thế thôi, chứ mình đã tìm hiểu và biết:

Mùa này biển bắt đầu động, khay rau mầm kê cẩn thận trên giàn giáo mép đảo, để sẵn con dao “thu hoạch”, tận dụng đến từng sợi rễ và khía đều đặn trên mép khay, chia bữa - chia ngày.

Trong vườn rau, những khay xếp thành vườn, để khách đất liền ra ngắm yên tâm, chứ có khi khách chưa ra tới tàu, bộ đội đã lụi hụi bê vào nhà cất che cẩn thận và rau tươi chỉ được chi dùng khi ai đó ốm đau...

Nhiều khách đất liền ra Đá Lát, sau khi đã hỏi han đủ chuyện dưới biển trên trời thường quay sang vặn vẹo: “Sao lại gọi là Đá Lát”.

Bộ đội vốn thật thà, không biết đành cười: “Cháu không biết!” khiến khách quay ra đoán già đoán non: “Chắc đá ở đây có đá, có lát như thể vân gỗ, làm sập gụ - tủ chè?”...

Ít ai biết: Ở điểm đảo chìm nhỏ nhoi nhất quần đảo, từ con ốc kỷ niệm, ngụm nước khát lòng, rễ rau giòn dịu, thành lô cốt dày vững chãi cho đến vụn san hô sắc như dao cạo... hết thảy đều đẫm mồ hôi và có khi là máu của những người lính phòng thủ đảo, những thế hệ công binh cần mẫn đêm ngày.

Mồ hôi đổ xuống từng viên đá, vụn san hô và bạc trắng, mặn chát từng lát đá ở đảo, nên đảo mới được gọi là Đá Lát yêu thương...

Mai Thanh Hải
(Gửi về từ khu vực đảo Đá Lát - Trường Sa, trong hành trình của tàu công tác HQ-571)