25 tháng 6, 2011

HẬU QUẢ CỦA "VẤN NẠN BẰNG GIẢ": "QUAN CHỨC LỚN NHỎ TOÀN DÙNG BẰNG GIẢ, KIẾN THỨC GIẢ ĐỂ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN?"...

Mai Thanh Hải Blog - Khi mà các địa phương tới tấp tổ chức các Kỳ họp HĐND đầu tiên của khóa đầu tiên, bầu các chức danh lãnh đạo của tỉnh, đồng nghĩa với việc: Những "tai tiếng" của một số quan chức đầu tỉnh, được đưa ra công luận trước kia, hình như... chìm xuồng.
       Mãi mãi về sau, con cháu chúng ta, khi tra "gúc gồ" mới biết những "chuyện cơ mật", ví như: UVTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên có "nghề tay trái" là sáng tác thơ - nhạc - viết kịch bản phim, xưng danh Tiến sĩ khi chưa nhận Bằng và tấp nập xe biển xanh theo chân Bí thư về Hà Nội, cùng nhận tấm Bằng Tiến sĩ, trong buổi sáng ngày nghỉ cuối tuần; Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Yên Bái Nguyễn Văn Ngọc, lấy tiền thuế của dân để đi học "trường giả", lấy "Bằng giả", chống lệnh Thủ tướng... mất hết mọi chức vụ, chân - ghế thành cán bộ thường, nhưng vụt phát như Thánh Gióng, được cấp trên nhấc lên chức danh cao hơn: Phó Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (tương đương Thứ trưởng) với đủ quyền lợi, tiêu chuẩn...

Trưa nay, rảnh rang ngồi hầu mấy Cụ Lão thành Cách mạng, cùng toàn cựu UVTW cả. Mấy cụ khề khà vài cốc bia hơi, có tý men, lại quen... quay ra "bàn việc nhớn" và chất vấn: "Mấy cái vụ Bằng cấp của mấy anh lãnh đạo ra sao rồi?". Mình cũng liu khiu vài cốc theo các Cụ, bốc tý, trả lời thẳng: "Các cụ phải hỏi các anh ấy chứ?". Bàn bia tự dưng trầm hẳn, ông cụ nhà mình lắc đầu, nói đại ý: "Sẽ đi về đâu, khi tràn lan những tấm bằng Tiến sĩ toàn được mua bằng tiền thuế của dân?. Khi mà quan chức lớn nhỏ toàn dùng bằng giả, kiến thức giả để lãnh đạo nhân dân?"...

Bữa bia cuối tuần giữa buổi trưa Hà Nội mưa lướt thướt, bỗng dưng mất vui. Về nhà, mở máy tính, đọc lại mấy bài viết cũ, tự dưng gặp lại ý của các Cụ trong bài viết của Đào Tuấn, cũng lâu rồi. Thôi thì! Nương nhờ chút thở than! Post lên để mọi người cùng đọc, ngày cuối tuần...
----------------------------------------

Nếu người đứng đầu Chính phủ đi Hội đàm Cấp cao còn phải dùng "phao", thì tại sao các Quan chức lại không thể mua Bằng Tiến sĩ?.

Mình còn nhớ như in cảm giác của mình, khi chứng kiến Vị Nguyên thủ Quốc gia, trong lần hiếm hoi được "Hội đàm" với Tổng Thống Mỹ, đã phải dùng tới "phao". Ông, chốc chốc, cứ xong một câu là lại cúi nhìn xuống "chiếc phao" cầm lăm lăm trong tay. Hình ảnh này được truyền tới hàng chục triệu dân Việt Nam và hàng tỷ người dân trên toàn thế giới.

Chúng ta hãy lật giở lại quy trình: Học sinh từ bé đã phải học theo kiểu "để thi". Sự tồn tại của những cái "chợ phao" trong khu Bách Khoa và ở tất cả những Cửa hàng photocopy, là một minh chứng cho một nền Giáo dục thi cử "không thể không phao". Và phải chăng chuyện những tấm Bằng Tiến sĩ bây giờ (hay nhục nhã hơn, việc dùng phao của Thủ tướng), chỉ là sản phẩm của nền Giáo dục đó?.

Câu chuyện tấm Bằng Tiến sĩ của Phó Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, không đợi đến khi có kết luận chính thức, cũng biết đó là bằng giả. "Không một trường nào trên thế giới, có thể đào tạo Tiến sĩ trong chỉ 6 tháng cả!" - Một quan chức của Bộ Giáo dục và đào tạo đã nói thế, và chúng ta cứ tin là như thế đi. Huống chi, cái Trường cấp bằng cho vị Phó Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, đã được phanh phui là đã bị cấm từ lâu và tất cả những tấm Bằng mà nó sinh ra đã không còn được nước Mỹ (nơi nó đặt trụ sở), chấp nhận từ 7 năm, trước khi ông Phó Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Nguyễn Văn Ngọc "lấy Bằng".
Ông Nguyễn Văn Ngọc (trái) nhận quyết định về TW

Sau ông Ngọc, lại đến chuyện Bằng giả ở Long An, với con số chỉ có 6/96 trường hợp kiểm tra là có bằng thật, 90 trường hợp còn lại không học vẫn có Bằng. Những người chưa đi học ngày nào thì "sau một đêm" có Bằng cấp 3. Những người đến tiếng Việt còn chưa sõi, một chữ bẻ đôi không biết vẫn có Bằng ngoại ngữ: Chủ tịch MTTQ Bằng giả, Công an Bằng giả, Bí thư đoàn, rồi đến cả Trạm trưởng y tế, đến Chánh phó Chủ tịch, Chánh phó Bí thư cũng... Bằng giả.

Có một câu chuyện khôi hài đến mỉa mai đang diễn ra tại đây: Ở xã Hưng Điền B (huyện Tân Hưng), Trưởng Công an xã dùng bằng giả, nhưng không thể “đôn” Phó Công an lên thay thế vì vị Phó này cũng dùng bằng giả. Giả nhiều, giả dầy, giả cả đám, đến nỗi nhiều nơi không thể xử lý những cán bộ dùng Bằng giả.

Lý do: "Bỏ người dùng Bằng giả đi rồi, sau đó không tìm được người thay thế". Nhớ lại là Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã lưu lại... hậu thế lời phát biểu nổi tiếng: "Cách chức đi, kỷ luật đi thì lấy ai làm việc". Ngẫm lại, hóa ra Chính phủ không phải không biết. Nhưng biết rồi thì cũng chả biết làm gì, trong một nền giáo dục... "bất Nhân", hay "phi Nhân" này.

Con số các "ông Ngọc" giờ nhiều đến mức, không chóng thì chày, Nhà nước phải ra lệnh: Cấm không cho kiểm tra Văn bằng của quan chức to bé. Bởi với mật độ "100 ông Ngọc mỗi tháng" thế này, đúng là "lấy ai ra làm việc" chứ chẳng chơi.

Câu hỏi đặt ra là: Phó Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Nguyễn Văn Ngọc (nay là Phó Bí thư Đảng ủy Khối các Doanh nghiệp Trung ương) đã làm bằng giả như thế nào?. Làm để làm gì và vì sao phải làm?.

Câu hỏi đầu tiên rất dễ trả lời. Khi ông (hoặc lái xe của ông), ngửa tay nhận 74 triệu đồng từ Ngân sách, có nghĩa là tấm Bằng của ông đã được mua bằng tiền thuế của dân. Vâng, chính xác là tiền thuế của dân, dù trên danh nghĩa đó là tiền thu hút nhân tài, tiền hỗ trợ cán bộ đi học... Nhưng tấm bằng đó làm sao có thể thuyết phục được mình (cũng như đông đảo nhân dân), rằng "phải hy sinh quyền lợi của... đứa con nhỏ nhà mình", để góp tiền cho các vị đi mua Bằng giả?..

Bởi với cái Bằng giả đó, các vị sẽ làm được gì để trả hết nợ cho những người đang "thuế ngày thuế đêm, thuế trên thuế dưới, thuế trước thuế sau, thuế to thuế bé, thuế mồ hôi thuế nước mắt" (thậm chí cả... thuế máu), để có tiền đóng cho Nhà nước, lấy tiền nuôi các ông ăn học?. Bởi chưng người dân quan tâm đến một vị quan chức ở chỗ "Ông đã làm được gì cho dân?", chứ không cần gì phải quan tâm xem "Ông là gì?".
"Tiến sĩ 6 tháng" Nguyễn Văn Ngọc, PBT Đảng ủy Khối DNTW

Phó Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Nguyễn Văn Ngọc sẽ dùng cái Bằng giả đó làm gì?. "Để cất vào tủ!"- GS. Văn Như Cương trả lời. Vị GS già than vãn về một thực trạng xã hội đang tồn tại tâm lý: Trọng Bằng cấp hơn thực tài. "Câu chuyện “học giả” mong có “chức thật” còn đau đớn hơn, khi xã hội dễ dàng chấp nhận những người đi học Thạc sĩ, Tiến sĩ ở những ngành nghề không liên qua đến chuyên môn của mình. Khi học xong, đem bằng về cất vào tủ" - Ông nói. GS -TS Nguyễn Minh Thuyết thì cho đây là "Thói hiếu danh hám lợi của những người đang giữ cương vị lãnh đạo".

Câu chuyện bằng giả càng lúc càng nóng khi nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, GS. Phạm Minh Hạc công bố thông tin động trời: "Từ 2001 - 2004, Bộ cũng đã tiến hành rà soát trên cả nước và phát hiện hơn 10.000 trường hợp quan chức có bằng cấp giả!"...

10.000 quan chức, 4 số 0000. Và sự việc này sau đó đã được "cất kín". Có lẽ chính sự bưng bít là một trong những nguyên nhân khiến nạn "Học giả-Bằng giả-Chức vụ thật-Tiền thật", không những không bị dẹp bỏ, mà ngày càng trở nên tinh vi hơn. Giờ đây, không ai biết là trong số 90.000 vị Tiến sĩ, có bao nhiêu là "đồ xịn", bao nhiêu là "hàng dởm", khi hết Tiến sỹ Ân 2 tuần, lại đến Tiến sỹ Hải 40 ngày và giờ đây lại đến Tiến sỹ Ngọc 6 tháng. Toàn Quan chức đầu ngành, đầu tỉnh...

Ngẫm thấy cái sự học bị khinh thường quá thể. Nguyên Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương, GS TS Phạm Tất Dong phát biểu: Tôi quả quyết tại nhiều cơ quan chính quyền địa phương hiện nay có tới hàng vạn Cử nhân, Thạc sỹ, Tiến sĩ được đào tạo theo “đơn đặt hàng”, để khi cầm tấm Bằng trên tay, họ vẫn không thể viết được một câu văn bản rõ ràng.

Ông Hoàng Thương Lượng-Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái (vừa nghỉ hưu), nói: “Bằng này Bộ Giáo dục đào tạo nước ta không công nhận sử dụng". Theo ông: “Vấn đề kinh phí thì không phải là lớn, mà quan trọng nhất là giá trị pháp lý của tấm Bằng Tiến sĩ ấy. Rõ ràng trường này nằm trong danh sách lừa đảo. Tỉnh sẽ đối chiếu với quy định đào tạo Tiến sĩ của Bộ để xem xét và quyết định!"... Nhưng rõ ràng, đây mới chỉ là những biện pháp bị động, khi dư luận đã đẩy lời vào mồm, bắt ông phải nói. Và cũng chỉ là để xử lý những "Tiến sĩ bị lộ". Chứ không phải là biện pháp hay ho mới mẻ gì, để chủ động phát hiện và ngăn chặn tình trạng Bằng giả của quan chức các cấp, các địa phương.
Còn bao nhiêu những "đồng chí Tiến sĩ chưa bị lộ?". Không ai biết được. Bởi chỉ tính riêng "Trường Đại học ma" (nơi ông Ngọc lấy Bằng Tiến sĩ), đã từng cho... "ra lò" 43 Thạc sĩ và hiện vẫn còn 160 học viên Thạc sĩ khác. Đó là chưa kể tới hàng trăm, chính xác là 120 Thạc sĩ MBA mà "Trường Đại học ma" này phối hợp với Hanoi School of Business "đào tạo" nên.

Để bảo vệ cho "sếp Ngọc", Giám đốc Viện Nghiên cứu đào tạo Kinh tế - tài chính, ông Nguyễn Thanh Nam  đã hùng hồn khẳng định một chuyện rất kỳ lạ, về tấm Bằng Tiến sĩ của ông Ngọc: "Bảo đảm do Ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó là bà Condoleezza Rice ký. Kèm theo đó là chữ ký của cả... Tòa án New York, Thống đốc Bang New York. Còn Bằng Tiến sĩ của ông Giám đốc Sở Văn hóa - thể thao  và du lịch Phú Thọ, mà gần đây dư luận xôn xao, còn có cả chữ ký của... cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton"...

Còn nhớ tại diễn đàn Quốc hội khóa XII, Đại biểu Quốc hội Lê Văn Cuông phát biểu: "Ở các nước, người ta đào tạo Tiến sĩ để làm việc trong các Trường, Viện Nghiên cứu. Còn ở nước ta, làm Tiến sĩ là để ra làm... Quan". Ông Cuông cũng nói thẳng rằng: "Việc này sẽ tạo cho nạn chạy chức chạy quyền phát triển".

Chính vì "học Tiến sĩ để làm Quan", hoặc "làm Quan nên học Tiến sĩ để được làm... Quan to hơn", cho nên ở Việt Nam mới sinh ra những cái "Đề án Phổ cập Tiến sĩ" ở Hà Nội, hay Chương trình đào tạo 20.000 Tiến sĩ của Bộ Giáo dục. Lo ngại của Đại biểu Lê Văn Cuông về "Hội chứng ra ngõ gặp Tiến sĩ", hoàn toàn không phải là thừa. Và tất nhiên, song hành với nó sẽ là "Vấn nạn chạy chức chạy quyền".

Cho nên, cái gốc của "Đại nạn Tiến sĩ giả", chính là lối "tư duy tủ kính" - Một biến tướng của chủ nghĩa lý lịch còn sót lại, một căn bệnh "con nhà" đời mới, hình thức, háo danh đến mức bệnh hoạn.

Một đất nước sẽ ra sao, khi một Nguyên thủ Quốc gia phải cầm phao khi "Hội đàm" với Nguyên thủ nước ngoài?. Sẽ đi về đâu, khi tràn lan những tấm Bằng Tiến sĩ toàn được mua bằng tiền thuế của dân?. Khi mà Quan chức lớn nhỏ toàn dùng Bằng giả, kiến thức giả để lãnh đạo nhân dân?..

24 tháng 6, 2011

"DÍ TIỂU LIÊN" - "ĐI TIỂU TIỆN"

Đinh Vũ Hoàng Nguyên - Có một dạo mình đi vẽ, đến một vùng hơi xa đường quốc lộ, chỗ đó gồm cả người Thái và người Kinh cùng ở. Tại đây, mình gặp một gã giáo viên mặt trắng dáng thư sinh, vốn dạy học ở miền xuôi, phải lên trên này dạy 2 năm do bị kỉ luật. Tuy là thầy giáo văn, nhưng gã rất ghét nói đến văn chương, mà chỉ thích uống rượu và tán chuyện nhắng nhố.

Trông bộ dạng gã như kẻ lánh đời. Mình chợt liên tưởng tới ẩn sỹ Xiến Tóc trong cuốn "Dế mèn phiêu lưu kí". Nên dùng tên đấy để gọi luôn cho tiện. Xiến Tóc có kể mình nghe vài chuyện ở ngôi trường gã dạy. Dẫu gã đã cam đoan là người thật việc thật, nhưng độ tin cậy đến đâu thì mình không dám đảm bảo. Ghi ra đây chỉ cốt cho vui.
----------------
Câu chuyện một:

Ở trường Xiến Tóc có một cô giáo ngoài 40. Mắt loạn thị. Chẳng may, cô bị vỡ kính. Ở vùng này, tìm được mắt kính thay thế không dễ, nên cô đành để vậy lên lớp.

Hàng ngày, cô cho học trò mở bài trong sách giáo khoa, bảo chúng tự đọc, rồi cho chép những ý cần thiết. Giáo trình dạy cô cũng thuộc hòm hòm. Chỉ nhìn đề bài là áng áng được những gì cần nói. Do thế, mọi sự vẫn suôn sẻ.

Hôm đấy, giờ cô giảng có giáo viên cùng trường đến dự. Nên khác với mọi lần, cô mở sách giáo khoa ra đọc. Trong bài có đoạn: "Anh Phan Đình Giót dí tiểu liên vào lỗ châu mai địch...".

Do nhìn không rõ chữ, cô đọc "dí tiểu liên" thành "đi tiểu tiện". Rồi giảng: "Anh Giót coi thường kẻ thù đến mức đái vào chúng. Hành động của anh chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng...".

Kể đến đây, Xiến Tóc nói:

"Kể như trong sách mà ghi, anh Giót dí ... Đại liên vào lỗ châu mai, thì còn anh hùng nữa!".
.
Câu chuyện hai.

Có một giáo viên cùng trường Xiến Tóc bụng bị chướng lên, đau vật vã. Tiền sử chàng ta đã mổ ruột thừa. Thỉnh thoảng lại đau như thế.

Mình từng phải mổ ruột thừa. Nghe tả vậy, nên đoán, có lẽ chàng giáo viên nọ bị dính ruột. Cái kiểu đau này rất khiếp, người oằn oại, chỉ khi nào thoát khí được ở hậu môn, tức là ruột thông, thì mới khỏi. Trường hợp quá nặng có thể phải mổ.

Vùng đấy xa quốc lộ, tới được Trạm Y tế không đơn giản. Mà dẫu tới được, thì Trạm cũng chỉ là nơi trung chuyển, chứ khả năng điều trị rất hạn chế.

Ở bản Thái có bà lang bị mù, toàn cắt thuốc lấy trên rừng, thuộc loại mát tay. Mấy giáo viên ở Trường bàn nhau đưa thử qua đó.

Bà lang mù nghe có người đau bụng, mới bảo mấy giáo viên đi cùng xuống bếp đun nước. Sau đó kêu bệnh nhân tụt quần. Nghe vậy, mọi người hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn tăm tắp làm theo.

Nước sôi. Bà lang lần lần tay vào háng anh chàng giáo viên. Đột nhiên bà hú lên thất thanh:

"Chết chửa! Đẻ ngược! Đứa bé lòi chân ra đây này!"

Mọi người bò ra cười. Chàng giáo viên đang đau, cũng lộn từ phản xuống đất vì cười. Bụng chợt sôi, đánh rắm một tràng thối um.

Cũng may, nhờ thế là khỏi.
.
Câu chuyện ba.

Có lần Xiến tóc ra suối, gặp một đồng nghiệp nữ trẻ. Cô ta là người Kinh, bình thường ăn mặc như người dưới xuôi; riêng hôm ấy cô lại vận váy của người Thái. Thấy Xiến tóc ngạc nhiên, cô giáo bảo:

"Trời nóng, em mặc thế này ra suối cho nó mát!".

Mình nghe chuyện, thấy nhạt thếch...

Ngừng một lúc, rồi Xiến Tóc thủng thẳng nói tiếp:

"Tiếng Việt đa nghĩa lắm. Như cô ấy bảo: " Trời nóng, em mặc thế này ra suối cho nó mát". Vậy không biết từ "nó" ở đây, phải hiểu là cái gì???".

(Hình ảnh trong bài viết mang tính chất minh họa, không liên quan đến nội dung bài viết)

MỀM NẮN, RẮN BUÔNG

Biển hiệu các dịch vụ bằng tiếng Tàu cạnh nhà máy Nhiệt điện HP
Mai Thanh Hải Blog - "Mình cũng lấy làm lạ: "Sao mà lắm người Tàu trên đất nước mình đến thế?". Có đi Bắc Nam mới biết. Trên tàu hỏa cũng thấy đông, xuống ga cũng gặp nhiều, qua Thanh Hóa, Vinh và các thành phố lớn cũng nhan nhản người Tàu..." - Một chi tiết trong câu chuyện của tác giả Mai Tiến Nghi (Blog Cua Rận), kể lại câu chuyện mà ông và hàng chục người Việt Nam trên chuyến xe khách đường dài đã chứng kiến, chịu đựng khiến cho người đọc không thể không xót xa , giật mình về 1 thực tại đã, đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở nhiều địa phương trong cả nước.


Mình lại nhớ đến câu chuyện cách đây không lâu: Tụi mình xuống Hải Phòng làm phóng sự về tình trạng lao động phổ thông Trung Quốc tràn lan ở TP Cảng. Mặc dù đi xe Lancruised con vẹt xanh đỏ của VTV, đen biển số 80B đàng hoàng, nhưng từ Ủy ban đến Công an TP, huyện Thủy Nguyên, khi nghe đến "tên đề tài" đều... trốn biệt. 
Tìm cách phỏng vấn lao động TQ


Điên tiết, tụi mình phi thẳng đến "Trung tâm lao động Trung Quốc" làm Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng, nằm ỡ xã Minh Đức, huyện Thủy Nguyên và... yểm hộ nhau quay phim, phỏng vấn. Điên nhất là khi chui vào tận cái "khu ổ chuột" của hàng vài trăm lao động Tàu, mấy thằng quần là áo lượt (hình như là Đội trưởng lao động hay quản lý gì đó), xủng xẻng ngăn không cho quay phim tác nghiệp và sai phiên dịch gọi... Công an huyện tới xử lý tụi mình.


Bảo vệ xe Đài - máy quay (tài sản XHCN mà), rút cục đành phải hậm hực vác máy, quay tự động và rút khỏi cái "ổ chuột", đứng ngoài cổng khóa chặt, nghe chúng nó xủng xẻng chửi tụi mình từ bên trong. Thằng kều, phóng viên Ban Thời sự VTV văng tục, mình vẫn nhớ: "ĐM! Đất nước của mình mà đéo được quay, lại bị chúng nó đuổi cổ. Có khẩu AK ở đây, tao bắn chết mẹ tụi này rồi muốn ra sao thì ra!".


Phóng sự đó, tụi mình làm rất công phu bởi từ lái xe, kỹ thuật, quay phim, biên tập đều dồn hết tâm huyết cho đề tài. Thế nhưng rút cục, vẫn không được phát sóng. Bài viết này, mình minh họa bằng những tấm hình mình đã chụp, trong mấy ngày đó. Âu cũng thoải mái...

Xin trân trọng cảm ơn người kể lại câu chuyện mang "tinh thần cảnh giác". Giá như ai cũng thực hiện "đối sách" này, thì chắc hẳn bọn "hố hố há há" chẳng dám ngông nghênh trong phố, ngoài đường, trong công trường, cổng nhà máy... ở khắp các thành phố, vùng miền, thôn quê - biên giới trong cả nước. Đặc biệt, ở ngay trên Biển Đông, kinh nghiệm này cũng nên được học tập.
-----------------------------------------------------------------------------

Mốc địa giới xã Minh Đức bằng... tiếng Tàu
MỀM NẮN, RẮN BUÔNG

Năm ngoái, bằng giấc này, mình vào Đồng Tháp thăm người nhà. Lúc đi bằng tàu hỏa Thống Nhất. Lúc về bằng ô tô giường nằm của hãng xe Hoàng Long.

Đi xe giường nằm tương đối thoải mái. Đỡ tiếng ồn, có máy lạnh và được ngắm cảnh thỏa thích, chứ không như tàu hỏa, cứ "kình kịch, cành cạch" điếc cả tai, nhìn ra ngoài toàn rừng với núi… Nhìn một lúc chán mắt muốn buồn ngủ, nhưng cái tiếng "cành cạch kình kịch" nó choảng vào lỗ tai, khó chịu đến không thể ngủ được.

Nhưng xe chật nên giường nằm chỉ rộng khoảng 50 phân, còn chiều dài cũng đủ 1m90, nhưng khoang để chân người sau, là phần gối đầu của người nằm phía trước.

Nhà xe rất cẩn thận, trước khi lên xe, hành khách mỗi người nhận 1 cái túi nilol bỏ dép giầy vào đấy, rồi cất lên chỗ nằm cùng với hành lí khác. Lúc nào xuống xe, thì cầm cái túi đựng dép ra cửa xe lấy dép đi vào. Vì vậy, sàn xe sạch bong.

Trên xe, nằm ngay trước mình là 2 thằng người Tàu. Mình cũng lấy làm lạ: "Sao mà lắm người Tàu trên đất nước mình đến thế?". Có đi Bắc Nam mới biết. Trên tàu hỏa cũng thấy đông, xuống ga cũng gặp nhiều, qua Thanh Hóa, Vinh và các thành phố lớn cũng nhan nhản người Tàu...

Sở dĩ mình biết được đó là người Tàu, vì ngày cấp III phải học ngoại ngữ tiếng Tàu, nên nghe tiếng, mình có thể hiểu, còn bảo mình nói thì ngoài "Nỉ hảo, nỉ mân hảo", chả nói được gì hơn.

Với lại ở Việt Nam, trông thấy anh nào nhếch nhác, đầu trọc, mắt một mí, thuốc lá rút từng điếu ra mời thì chắc chắn là cái anh người Tàu… nhận ra ngay.
Cổng vào "Khu ổ chuột" lao động TQ

Hai thằng người Tàu, đầu trọc nằm ở trước mình (có nghĩa đầu nó gối trên chân mình), một cao một lùn. Thằng cao thì cao hơn mình, nhưng gầy hơn mình. Còn thằng lùn thì thấp hơn mình, nhưng béo hơn. Nếu tính bình quân, thì mình cũng chẳng kém gì chúng nó.

Nhưng 2 thằng này lại rất vô văn hóa. Trên xe cứ cười nói ông ổng cả ngày, cả đêm. Mình không chịu nổi nữa, phải hét: "Im mẹ cái mồm chúng mày đi cho tao ngủ!". Bọn nó nghe quát vậy thì im bặt, trợn mắt nhìn, rồi lại "hố hố há há". Cả xe tức điên. Có người chửi: "Mả bố nhà chúng nó! Nó sang nước mình mà cứ như là đến chỗ không người!".

Mỗi lần nghỉ dọc đường, là 2 thằng lại biến đi đâu mất. Lúc lên xe, tất cả mọi người phải đợi. Nhà xe phải cho người đi tìm. Mãi mới thấy 2 thằng khệnh khạng "hố hố há há" lên xe.

Mình hỏi mấy anh nhà xe: "Kệ cha chúng nó không được à?. Sao lại để nó đi xe?". Tay nhà xe bảo: "Chúng cháu có muốn chở những loại này đâu, nhưng nó mua vé ở bến, bến xe xếp chỗ nên đành chịu. Chứ chở nó cũng chẳng hơn được đồng nào!".
Các lao động TQ tràn ra ngoài để.... đuổi phóng viên VTV

Mình bảo: "Kệ mẹ chúng nó!. Nó đến chậm, cho rớt dọc đường!". Nhà xe phân trần: "Không được đâu chú ơi!. Nó kiện cho mất nghề ấy, chứ chả chơi!". (Sau này mới biết mấy tay lái xe nói thật. Cái vụ Dìn Kí lật tàu đấy. Nó đòi phải đền 4 thằng Tàu, mỗi mạng 30.000 USD, còn chỉ phải đền mỗi mạng người Việt có 7.000 USD. Vậy ra, giá trị mạng sống chúng nó đắt hơn mạng người Việt Nam?).

Sau khi nghỉ ở Quy Nhơn, lúc lên xe, mình cầm vào cái túi đựng quần áo ở cuối chỗ nằm, thấy dính bết vào tay: "Giời ạ! Bã kẹo cao su!". 2 thằng chó này ăn kẹo cao su, rồi ném ngay sang chỗ mình. Mình biết điều ấy vì cả xe chả có ai ăn kẹo cao su, chỉ có 2 thằng mồm cứ trèo trẹo như trâu nhai lại. Vả lại, đầu nó sát chỗ mình để hành lí của mình, chỉ cần với tay sang lúc mình không để ý...

Khi 2 thằng đầu trọc "hố hố há há" khệnh khạng lên xe. Mình chìa cái túi có bã kẹo vào mặt 2 đứa, tay xua xua, bảo: "Không nên làm vậy!".

Hai thằng nhăn răng cười, đầu gật gật.
Hàng hóa TQ do người TQ mang sang bán trước "Khu ổ chuột"
"Mày biết rồi thì ông không thèm chấp!" - Mình ngủ một giấc. Ra đến Đà Nẵng nghỉ ăn cơm. Mình lăng xăng cầm túi đựng dép định xuống xe trước. Hai thằng trọc xuống liền sau. Mọi người trong xe cũng lục tục xuống theo.

Đến cửa xe mình thò tay vào túi lấy dép. Lại thấy dính. Lại bã kẹo cao su. Điên tiết, mình quay ngược lại, chỉ vào mặt 2 thằng Tàu: "2 thằng chó này!. Tao đã nhịn mày lần trước mà mày vẫn còn chơi đểu tao hả. Đồ khốn nạn!".

Hai thằng lại nhe răng cười!

Không thể chịu nổi nữa, mình rút dép dứ vào mặt 2 thằng: "Ông đã nhịn mày rồi, mà mày vẫn còn giở trò khốn nạn hả! Ông phải đập vào mặt mày, cho mày chừa cái thói khốn nạn đi nhá,2 thằng mất dạy kia!".

Và mình phang. 2 thằng tránh. Mọi người trên xe nhao nhao: "Đập chết mẹ nó đi!. Nhịn nó là nó tưởng mình sợ!. Ông cứ đập bỏ mẹ nó đi!". Vậy là mình yên tâm: "Ông một mình, nhưng ông có bao nhiêu người ủng hộ. Ông không sợ!".
Lao động TQ tại Thủy Nguyên, HP

Hai thằng xanh mặt, cụp đuôi im thin thít.

Chặng đường còn lại, 2  thằng không dám tác oai tác quái nữa. Không thấy "hố hố há há", nghỉ dọc đường xong cũng nhanh nhẹn lên xe, mọi người không phải đợi.. Nhà xe bảo: "Cái lũ này, mềm nắn rắn buông. Càng nhịn nó càng lấn tới. Cứ phải vậy mới được!".

 Tới Hà Nội. 2 thằng Tàu nhảy xuống đầu tiên. Mình xuống xe,  nhìn quanh: Không thấy 2 cái đầu trọc đâu!. Bọn này lẩn nhanh thế!..
-----------------------

23 tháng 6, 2011

"PHE TA" KHIÊM TỐN?..

Nguyễn Văn Tuấn - Theo dõi diễn tiến Hội thảo về “An ninh hàng hải ở Biển Đông” do CSIS (Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế) tổ chức, tôi có phần thất vọng với… phe ta.

Hôm qua, tôi bỏ ra cả giờ đồng hồ theo dõi hội thảo “Maritime Security in the South China Sea” do CSIS tổ chức.  Tôi đặc biệt theo dõi bài nói chuyện của TNS John McCain.  Trong bài nói chuyện, ông bắt đầu một cách ý nhị bằng cách kể chuyện ông đi thăm Miến Điện, những xa lộ 18 lằn xe mà chẳng có xe nào đi (ngoại trừ xe của ông), rồi mới vào chủ đề chính là sự bất ổn ở Biển Đông. 
Ông nói thằng Trung Quốc là thủ phạm gây nên bất ổn, qua những hành động hiếu chiến và khủng bố gần đây.  Ông nói như tát vào mặt Trung Quốc rằng những yêu sách đường lưỡi bò là vô lí, bất hợp pháp: “các tuyên bố mở rộng chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố trên Biển Đông; các lý do căn bản cung cấp cho các tuyên bố này, không có cơ sở luật pháp quốc tế; và những hành động ngày càng quyết đoán mà Trung Quốc đang thực hiện để thực thi các quyền tự nhận của họ, gồm cả vùng biển trong phạm vi 200 hải lý ngoài khơi bờ biển của các nước ASEAN, như là trường hợp gần đây trong các sự cố riêng biệt liên quan đến Việt Nam và Philippines".
Nghe cứ như là nhạc!. Việt Nam chúng ta đã nói điều này rất lâu, nhưng phải là lời nói từ McCain thì dễ gây chú ý và nó cũng nặng kí hơn ASEAN nói.
Cũng như bất cứ hội nghị nào ở phương Tây, sau mỗi bài nói chuyện là phần hỏi và trả lời.  Tôi chú ý phần này vì đây là những trao đổi có khi rất sống động và thật.  Từng làm chair trong hội nghị, tôi biết những buổi vấn đáp như thế này sống động như thế nào.
Trong phần vấn đáp sau bài của McCain, có chừng 10 câu hỏi.  Nhưng phần lớn xuất từ Mĩ, Trung Quốc và vài người trong khối ASEAN.  Buồn cười nhất câu hỏi của cô Tàu hỏi ông McCain là ông có những lời khuyên cho Mĩ, vậy ông có lời khuyên nào cho Trung Quốc hay không!. Còn một ý kiến của anh Tàu thì có lẽ không có ý kiến chắc hay hơn.  Ông McCain lịch sự trả lời từng câu. Cũng có khi ông hội ý khoảng 2 giây với chủ tọa về câu hỏi của anh Tàu (có lẽ vì tiếng Anh của anh Tàu quá kém nên ông McCain muốn hỏi chủ tọa xem ông ta nói gì). Nói chung, tôi nghĩ buổi chất vấn tương đối có chất lượng.
Điều làm tôi ngạc nhiên là không có ý kiến từ phái đoàn Việt Nam. Hoàn toàn không. Đây là điều hơi lạ lùng, bởi vì trong bài nói chuyện, ông McCain nhắc đến Việt Nam khá nhiều lần và thậm chí còn có những câu chữ có thể nói là “đưa tay ra bắt tay Việt Nam”.
Những gì ông ấy nói hoàn toàn có lợi cho Việt Nam (và bất lợi cho bọn Trung Quốc).  Ấy thế mà những người đại diện Việt Nam không hề đặt một câu hỏi, không hề có một bình luận, không hề nêu một ý kiến!.
May thay, có một vị phụ nữ Việt (chắc là đang ở Mĩ) đứng lên phát biểu và đặt câu hỏi.  Chị ấy hoan hô McCain (khi ông nói rằng nhân quyền là một yếu tố rất quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mĩ), và có một đề nghị thú vị: đổi tên biển “South China Sea” thành “Southeast Asian Sea”. Cử tọa cười và ông McCain nói “Good idea” (ý tưởng hay). Tôi cũng nghĩ ý tưởng rất hay.
Sau đó, chị ấy đặt vài câu hỏi cũng thú vị. Chị này rõ ràng là người quen với Hội nghị Quốc tế, tuy cách đặt câu hỏi có vẻ dài dòng. Nói gì thì nói, may mắn là trong khi phái đoàn Việt Nam kín miệng, thì có một người Việt Nam mở miệng nói và nói cũng hay.
Sự khiêm tốn của phái đoàn Việt Nam rất khó giải thích.  Bay cả 24 giờ từ Hà Nội (?) sang Washington, tốn vài chục ngàn đôla (tức có thể cả tỉ đồng), đất nước đang đứng trước sự đe dọa của kẻ thù, được người ta bênh vực, mà không hề có một chữ để đáp lại. Tốn tiền nhiều mà không có chữ nào (ngoại trừ bài nói chuyện mà tôi chưa đọc và chưa đuợc xem qua) thì thật là phí quá.
Ở nhóm của tôi, một qui tắc bất thành văn là khi nghiên cứu sinh đi dự Hội nghị Quốc tế, họ phải có đóng góp dưới hình thức bài báo và nêu ý kiến hay câu hỏi; không làm được điều này chúng tôi cho là phí tiền và lần sau khó có cơ hội đi dự hội nghị.
Đi dự Hội nghị không chỉ là “đem chuông đi đấm xứ người”, mà còn là nâng cao sự hiện diện của hai chữ Việt Nam trên trường quốc tế, chứ đâu phải chỉ đọc báo cáo. Không thể khiêm tốn như thế được!. Tại sao Philippines họ có ý kiến, mà Việt Nam chẳng có ý kiến nào?.
Tôi tự hỏi tại sao những người đại diện Việt Nam trong Hội nghị khiêm tốn như thế.  Tôi nghĩ đến những lí do như:
(a) không có ý gì để hỏi;
    (b) không hiểu được ý của McCain;
      (c) thiếu thông tin, nên chẳng biết gì để nói;
        (d) thẹn thùng, chưa quen với văn hóa Hội nghị Quốc tế;
          (e) phải chờ xin ý kiến cấp trên, vì sợ nói ra ý gì không hợp với cấp trên;
            (f) kém tiếng Anh nên thiếu tự tin trong khi phát biểu; và 
              (g) tất cả những lí do trên.
                Lí do (a) thì không thể đúng, bởi vì chắc chắn phía Việt Nam có nhiều ý để bàn.
                Lí do (b) thì chưa biết ra sao, vì hiểu cũng đòi hỏi kĩ năng ngôn ngữ.
                Lí do (c) thì có thể (chỉ “có thể” thôi), vì cán bộ chỉ tiếp thu thông tin một chiều, nên khi đương đầu với rừng thông tin trong Hội nghị họ trở nên lúng túng.
                Lí do (d) thì sai, vì cán bộ ngoại giao chắc chắn là quen với chuyện ăn nói hay đi dự Hội nghị nhiều lần.
                Lí do (e) rất có thể, do ai cũng sợ mất chức nên thà im lặng chứ nói ra mà không đúng ý cấp trên thì … rất mệt về về nhà. :-).
                Lí do (f) cũng rất có thể, vì nghe qua các vị ấy nói tiếng Anh rất khó hiểu.  Ngay cả xem qua cái video của người đứng đầu tòa đại sứ VN tại Washington trả lời phỏng vấn, tôi thấy rất khó nghe và đơn điệu, không như cách trả lời rất engaged và rất lively của bà Tôn Nữ Thị Ninh.
                Thật ra, đây không phải là lần đầu các nhà ngoại giao Việt Nam “khiêm tốn” trên trường quốc tế.  Trước đây cũng có vài Diễn đàn ở ASEAN, mà trong đó phía Việt Nam ít khi phát biểu gì.  Ngay cả bên cạnh bà Hillary Clinton “miệng lưỡi” hùng hồn, người đứng đầu ngoại giao Việt Nam cũng rất … ít nói.
                Mới đây nhất, trong một Hội nghị của Các tổ chức xã hội dân sự ASEAN ở Jakarta (Indonesia), phái đoàn Việt Nam cũng có hành động khiếm nhã. Khi một diễn giả nói về tình trạng nhân quyền (hay gì đó?) không mấy tốt ở Việt Nam, một thành viên trong phái đoàn Việt Nam lấy muỗng gõ vào tách cà phê để làm át tiếng nói người phát biểu. Thật là một thái độ lạ lùng, không văn minh chút nào.
                Tại sao không thảo luận bằng ngôn ngữ mà lại làm trò như thế?. Thật không thê nào hiểu nổi trong đầu họ nghĩ gì.  Không thể nào mang tiếng đại diện Việt Nam mà lại làm mất thể diện quốc gia như thế.
                Nguyên tắc của tôi là mỗi khi mình đi đâu ở nước ngoài mình phải là để ý đến thể diện Việt Nam. Dù tôi không còn mang quốc tịch Việt Nam nữa, nhưng với cái họ gắn liền với Việt Nam, nên khi đi công tác nước ngoài, tôi luôn nhìn trước xem sau mình nói và làm có gì ảnh hưởng tiêu cực đến nước Việt Nam hay không.
                Ngay cả Nghiên cứu sinh của tôi, tôi cũng nói như thế: Làm gì cũng phải nghĩ đến Việt Nam, chí ít mỗi người là một "đại sứ lưu động".  Do đó, tôi nghĩ trách nhiệm và nghĩa vụ của một người chính thức đại diện Việt Nam tại các Diễn đàn Quốc tế phải rất cao, và người dân hoàn toàn có quyền kì vọng họ phải là những người có tài, uyên bác, và hành xử lịch thiệp.
                Không có những attributes đó thì không nên đại diện Việt Nam.  Không có lí do gì phải khiêm tốn trước kẻ thù hung hãn khi mình có chính nghĩa.  Chẳng có lí do gì phải tiết kiệm lời nói để không đóng góp vào tranh luận trong một diễn đàn quan trọng như diễn đàn An ninh hàng hải ở Biển Đông vừa qua.
                NVT


                (Hình ảnh trong bài viết do Mai Thanh Hải Blog đưa vào để minh họa, giúp bạn đọc tiện theo dõi. Rất mong GS. Nguyễn Văn Tuấn lượng thứ)

                NHÀ NGHIÊN CỨU ĐINH KIM PHÚC: CHÍNH PHỦ PHÁP Ở ĐÔNG DƯƠNG LIÊN TỤC THỰC THI CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA-TRƯỜNG SA (1909-1933)

                Đinh Kim Phúc


                 “Hoàng Sa là một quần đảo thuộc về An Nam”
                (Les Lettres étudiantes et curieuses-Tập 3 trang 38,
                nhà xuất bản văn học Panthéon, năm 1843)
                ————–
                 
                Bản đồ khu vực Đông Nam Á do Jean Baptiste Nolin hoàn thành năm 1687.
                 (Nguồn: Bản đồ ký hiệu C.C. 1144.A lưu trữ tại Thư viện quốc gia Bồ Đào Nha)

                 
                Khu vực quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa được ghi chú là: Baixos de Chapar de Pulls Scir (tạm dịch: Bãi cát Champa là bãi đá ngầm) nằm trong Vịnh Cochin Chine (Golfe de la Cochin Chine)

                Khi nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, người Pháp đã nhận xét:

                “Quần đảo Hoàng sa gồm những đảo nổi tiếng trong biên niên sử hàng hải qua chuyện mắc cạn của tàu “l’Amphirite”, chiếc tàu đầu tiên của Pháp dưới thời vua Louis XIV, đi từ Pháp qua Trung Quốc (1698).
                Quần đảo nhỏ này có vị trí ở khoảng vĩ độ giữa Huế và Đà nẵng, chia làm hai nhóm: nhóm Croissant (Trăng Khuyết), ở gần bán đảo Đông Dương nhất, và nhóm l’Amphitrite (An Vĩnh), xa về phía Đông. Vị trí địa lý của quần đảo không ra ngoài phạm vi lãnh thổ của vua An Nam, Gia Long, đã đặt chủ quyền từ năm1806.
                Nhóm Trường Sa, được biết dưới tên nhóm đảo Tempête (Bão Tố) nằm ở vị trí mà phần lớn thuộc Đông Dương, cùng vĩ độ của quần đảo Côn lôn. Một nhóm khoảng 14 đảo, Trường Sa trải rộng ở phía đông nam của Paradang, phía nam của Hoàng Sa, 594 dặm về phía Nam đảo Hải Nam. Các đảo này có nhiều đảo san hô, là nơi trú ẩn của vô số chim biển; là một vị trí tuyệt vời cho thủy phi cơ trong vùng Đông nam Á, nằm giữa khoảng cách giữa bán đảo Đông Dương và Bornéo”.(1)

                Cho đến trước năm 1909, thế giới đã chứng kiến một sự kiện chưa từng có tiền lệ: quân đội của một nước da vàng đánh thắng quân đội của một nước da trắng. Đó là cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905).

                Đây là một thắng lợi đầu tiên của một nước châu Á trước một cường quốc châu Âu trong thời kỳ hiện đại. Uy thế của Nhật Bản tăng lên nhanh chóng và bắt đầu được coi là một cường quốc đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Đại Đông Á đang trên đà thẳng tiến.

                Trước đó, trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895) và chiến thắng cũng đứng về phía Nhật Bản nên đã làm cho giới lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ thức tỉnh, họ bắt đầu coi trọng đại dương và chiến lược hướng ra đại dương cũng bắt đầu từ đó. Và phương Nam vẫn là hướng bành trướng truyền thống của các nhà nước phương Bắc.

                 
                Bản đồ Trung Quốc năm 1910 (thời Nhà Thanh)

                [Bản đồ rõ ràng không phải của Trung Quốc mà do người phương Tây vẽ về thời nhà Thanh, Trung đế quốc vào năm 1910 AD, một năm sau chủ quyền của Trung Quốc bị đe dọa và bị bao vây hơn 70 năm.


                Trong Bản đồ năm 1910 này, được vẽ một năm trước khi hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh, Tuyên Thống (còn có tên Aisin-Gioro Pu Yi) thoái vị và cuối cùng đã kết thúc giai đoạn lịch sử phong kiến Trung Quốc, Trung Quốc được vẽ với ranh giới và sự xác định nhỏ nhất. Đáng chú ý là vùng Đông Bắc (Mãn Châu), và Nội Mông, cả hai vùng lãnh thổ trên danh nghĩa do Trung Quốc kiểm soát và thuộc chủ quyền của Trung Quốc được vẽ như các khu vực riêng biệt].

                (Nguồn:http://www.drben.net/files/China/ChinaMaps-ALL/Historic_Maps/Qing_Dynasty-1644-1911/_Ancient_Maps__Asia_-_Chinese_Empire_1910-S_op_800×611.jpg)

                Trong bối cảnh ấy, tầm quang trọng của hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã được nhận thức lại: “Các đảo nhỏ, đá ngầm mà trước đây chưa bao lâu, gây cản trở và làm người ta né tránh, thì hôm nay lại là chủ đề để người ta nghiên cứu, đặt tham vọng, và thay đổi quan điểm ngoại giao. Hậu quả là, người ta phát hiện ra những điều mà trước đây đã bỏ qua: đó là nơi có thể làm căn cứ không quân, điểm để quan sát và tuần cảnh trên biển”.(2)

                Năm 1909, vì cho rằng quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, lần đầu tiên chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã tiến hành cho khảo sát Hoàng Sa. Quá trình tranh chấp biển Đông của Trung Quốc có thể nói rằng đã bắt đầu từ đây.

                 “Vào năm 1909, hai tàu chiến nhỏ của Trung Hoa đến từ Quảng Châu, bất ngờ, buộc 2 người Đức giao nộp tài liệu khảo sát về quần đảo trong vòng 24 giờ, nhưng họ loan một mẫu tin trong một tờ báo lớn ở Quảng Châu, ngày 20 tháng 6, một tin quan trọng khôi hài: ‘Teo-tai-Li, như đã nói, là đã vẽ một bản đồ tổng quát về các đảo mà ông đã khám phá và 15 bản đồ riêng của cùng những đảo đó( trong vài giờ !)” (3)

                 
                Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933

                Xác nhận sự kiện trên, báo Advertiser số ra ngày thứ Ba, 29/6/1909 đã viết:

                "Tin từ cảng Darwin hôm 28/6 – một nguồn tin từ Trường Sa (Hồ Nam, Trung Quốc) cho biết Trung Quốc vừa tiến hành một sứ mạng chính thức với sự tham dự của cả các sĩ quan chỉ huy cấp cao, đó là ra thăm quần đảo Hoàng Sa trên 3 pháo hạm Fupao, Chinhao và Kwong Kum để thượng cờ rồng (Long kỳ – cờ Thanh triều Trung Quốc) tại quần đảo này. Đảo Robert bị đổi tên thành đảo Fupao, đảo Cây thành đảo Chinhao sau khi hai con tàu trên tới các đảo này. Điều này cho thấy người Trung Quốc đang nhắm tới việc biến Zulinkan thành căn cứ phía Nam cho hải quân Trung Quốc trong tương lai” .(4)

                Cũng trên báo Advertiser số ra ngày thứ Hai, 5-7-1909, tiếp tục đưa tin:

                “Đô đốc Le và Taotai Li, những người vừa ghé thăm quần đảo Hoàng Sa, đã trình tấu cho Phó Vương Quảng Đông là hai đảo Fuk-Po và Mo-Huk có thể được dùng để làm thương cảng, và một cây cầu sẽ nối liền hai đảo. Họ cho biết các cơ sở làm nông nghiệp, sản xuất muối, và nghề cá có thể được duy trì trên những đảo này”.(5)

                 
                Tin về quần đảo Hoàng Sa trên trang 8 báo The Advertiser, ngày thứ Hai, 5-7-1909

                Từ những sự kiện kể trên, cho đến nay các học giả Trung Quốc vẫn căn cứ vào đó coi như hồ sơ pháp lý của mình để hợp thức hóa trong việc lên tiếng chủ quyền của họ trên biển Đông. Nhưng phía Trung Quốc quên rằng trong các năm 1895, 1896 khi các ngư dân ở đảo Hải Nam ra cướp đồng trên các tàu bị đắm tại Hoàng Sa như tàu Bellona của Đức và tàu Imezi Maru của Nhật, chính phủ Anh đã phản kháng và Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo nầy không thuộc về mình.(6)

                Trong khi ấy, sau khi Hoà ước Giáp Thân (1884), là Hoà ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và kể từ đây thực dân Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam. Thực dân Pháp sẽ thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh là đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cũng theo tinh thần của Hòa ước Giáp Thân, thực dân Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

                Trong khoảng thời gian từ 1894-1899, Pháp đã đạt được nhiều lợi ích từ Đông Dương, Trung Quốc và đạt được về nguyên tắc những lợi ích căn bản tại đây, nhưng cũng kể từ thời gian này, chính sách của chính phủ Pháp chú trọng đặc biệt vào châu Phi. Nhưng chúng tôi thấy rằng không vì lợi ích kinh tế ở Châu Phi và những khó khăn ở Đông Dương (lúc đầu người Pháp không mấy quan tâm đến Hoàng Sa) thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy trì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa:

                “Cần nhắc lại rằng trong khoảng năm 1899, M. Doumer, khi đó là Thống đốc Toàn quyền Đông Dương, đã ra lịnh xây dựng một hải đăng trên đảo Hoàng Sa. Một dự án đã được thực hiện hoàn tất. Dự án này đã bị ngưng trệ một cách lặng lẽ trong khối nhiệm vụ của một quan toàn quyền”.(7)

                Dự án này tuy được Toàn quyền Paul Doumer ủng hộ nhưng bất thành vì thiếu ngân quỹ. Giải thích về vấn đề, Báo La Nature có nhận xét: “Chính phủ Pháp, đã thiết lập sự đô hộ của họ đối với An Nam mà những hòn đảo này thuộc lãnh thổ của An Nam, nên Pháp có quyền sở hữu và trách nhiệm coi sóc đối với lãnh thổ mới này. Phải nhận thấy rằng họ đã hoàn toàn phớt lờ trách nhiệm cho đến hôm nay. Lý do vì lợi tức ít oi hoàn toàn không biện bạch được cho việc thờ ơ này”.(8)

                Tuy nhiên, hải quân Pháp vẫn tuần tiễu vùng biển để giữ an ninh và cứu giúp các thuyền bị đắm: “Từ thời kỳ này đến 1920, quần đảo Hoàng Sa chìm vào quên lãng. Trong thời kỳ này, tàu của sở thuế Đông Dương thỉnh thoảng ghé nơi này nơi kia giữa các đảo của quần đảo, khi thì can thiệp giữa các người đánh cá Trung Hoa và An Nam khi họ hành nghề ở đó, bước đầu họ phải vất vả đánh bắt sản vật biển để sau đó đem bán cùng với các sản vật biển khác mà phụ nữ và trẻ em thu lượm được, khi thì ngăn chận bọn buôn lậu vũ khí và á phiện”.(9)

                Bên cạnh việc giữgìn an ninh trên biển, năm 1917, 1918 trong các báo cáo của chính quyền Pháp tại Đông Dương, có đề cập đến việc cần thiết lắp đặt đài radio TSF, trạm quan sát thời tiết, hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy Pháp sớm quan tâm quản lý, thực thi chủ quyền Hoàng Sa trong Đông Dương thuộc Pháp. (10)

                Vào cuối năm 1918, sự kiểm soát của Pháp trên biển Đông rất gắt gao, chính vì thế Nhật Bản phao tin là Pháp giành quyền khai thác phốt-phát. “Trường hợp hãng Mitsui Bussan Kaisha, đã từ lâu khai thác phốt-phát trên hai đảo Ile Boisee (Phú Lâm), và Ile Roberts (Cam Tuyền). Chính phủ Nhật Bản công nhận quyền hạn pháp lý của Pháp năm 1927. Trong bản tường trình cho Bộ Thuộc Địa tại Paris viết ngày 20 tháng ba năm 1930, chính phủ thực dân Pháp tường thuật rằng vào năm 1927 Lãnh Sự Nhật Bản tại Hà Nội, ông Kurosawa, đã thay mặt chính phủ Nhật Bản hỏi Pháp về tình trạng một số đảo trong vùng biển Đông. Nhưng Lãnh Sự Nhật Bản tuyên bố rằng, theo chỉ thị của chính phủ Nhật Bản, quần đảo Hoàng Sa dứt khoát không được bàn đến, vì Nhật Bản không hề tranh luận chủ quyền của Hoàng Sa với Pháp”.(11)

                Trước tình hình đó, trong bài báo La perte du Haiphong của tạp chí L’Eveil économique de l’Indochine số 394 xuất bản tại Hà Nội ngày 28/12/1924 đã kêu gọi về sự cần thiết phải chiếm giữ và xây dựng các công trình trên quần đảo Hoàng Sa, lợi ích của việc xây hải đăng trên đảo Tri Tôn.(12)

                Sự kiểm soát biển Đông có hiệu quả của của chính quyền thực dân Pháp đã dẫn đến điều kiện cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa.

                “Một cuộc khảo sát về độ sâu vào năm 1926 được tàu De Lanessan của Sở nghiên cứu hải dương và nghề cá Đông Dương thực hiện, với sự điều hành của D’A. Kempf, giám đốc Sở. Chuyến khảo sát đã ghi nhận thành phần cấu trúc duy nhất của đất đá trên các đảo và đảo nhỏ là đá vôi san hô, trên bề mặt là một lớp san hô sống, cát và sỏi đá vôi.

                Người ta cũng thấy có một tầng đá vôi phos-phat dày chừng 1m với hàm lượng axit phos-pho-ric từ 23-25% trong tầng mặt, 42% ở tầng sâu (Phân tích của giám đốc phòng thí nghiệm hóa học Sàì gòn, M.Michel-chú thích của tác giả bài báo).

                Sự khám phá ra mỏ khoáng này, thật có lợi như ta đã thấy, nhưng cho đến nay, chỉ có một công ty Nhật, vào năm 1920, được giấy phép của Tư lệnh hải quân Sài Gòn đến khai thác mỏ trên đảo Phú Lâm (Boisée) và Hữu Nhật (Roberts). Một số lượng phos-phat nào đó đã được đưa về qua một đoạn đường sắt nhỏ dẫn đến một cầu tàu dài 300m, nơi cập bến”.(13)

                Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. “Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng. Cuộc khảo sát đáy biển này, đoàn nghiên cứu đã thực hiện bằng phương cách chiếu sáng, cho phép Sở Hải dương học và Nghề cá Đông Dương ghi nhận các loài sinh vật biển chưa được biết đến ở đó cũng như có thể trao đổi qua lại giữa các thành viên trong đoàn về số liệu của những khối san hô và độ sâu các vùng trũng phân cách chúng. Nhưng phải nói là rất ấn tượng với khối nước 20m này, nó trong suốt như thủy tinh với những loài cá nhiều màu sắc rực rỡ lượn qua lại giữa các loài san hô đa dạng”.(14)
                Mặc dù “Có vẻ như việc khai thác này không đem lại hiệu quả nên các công trình xây dựng từ lâu bị bỏ phế: cầu tàu, xe goòng, xà lan xi măng, máy chưng cất, v.v…Việc khai thác, thực tế có vẻ không hữu dụng: gió mạnh, tiếp tế lương thực tốn kém và sự an toàn khi chuyên chở hàng hóa rất bấp bênh. Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng”.(15)
                Nhưng “Tốt hơn là các quy định này được lập ra khi chính phủ đặt trên khối đá ngầm này một hải đăng hiệu quả cho phép tàu đi biển không gặp nguy hiểm khi đi gần đến đó. Sẽ rất tuyệt vời nếu đặt thêm vào nơi đó một trung tâm thông tin khí tượng, ở nơi có nhiều cơn bão chính đi qua trong vùng biển Trung Hoa, để tổ chức và hoạt động của trung tâm này đưa ra những cảnh báo thời tiết.(16)

                Chính vì vậy, D’A. Kempf đã đề xuất thiết lập một đài quan sát và một ngọn hải đăng và nếu có thể là một bến cảng tại Hoàng Sa để có chỗ cho ngư dân tránh bão và bảo vệ ngư dân An Nam.(17)

                “Quyền hạn pháp lý của Pháp vững chắc, và yên ổn đủ để cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa. Một danh sách đáng kể gồm các công trình nghiên cứu khoa học trong mọi lãnh vực đã được công bố bởi các viện thuộc địa và học giả. Từ 1925, sau sứ mạng khoa học lần đầu tiên trên thuyền De Lanessan do các khoa học gia thuộc Hải Học Viện Nha Trang nổi tiếng thực hiện, những kiến thức về quần đảo Hoàng Sa được thu thập nhiều”.(18)

                Trong một báo cáo năm 1933 về tình hình kinh tế, tài chính của chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương có nói những hoạt động chính của tàu De Lanessan trong chuyến khảo sát quần đảo Trường Sa. Các đảo được khảo sát gồm có đảo An Bang (Amboyna Cay), Đá Tây (Récif London Ouest), Đá Chữ Thập (Fiery Cross), đảo Ba Bình (Itu Aba) và cụm Tizard, đảo Loại Ta, Đá Subi, đảo Thị Tứ, đảo Song Tử Đông (Cay de l’Alerte) và cụm Song Tử (North Danger) (19) đã chứng chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.

                “Bằng những hành động kể trên, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam. Tuy nhiên, khi đối diện với yêu sách không căn cứ và hành động bất hợp pháp của Trung Hoa về quần đảo Hoàng Sa năm 1932, người Pháp cảm thấy cần phải có biện pháp phòng thủ. Từ năm 1909, Trung Quốc thỉnh thoảng đòi chủ quyền trên đảo. Một lần trong năm 1909, chính quyền tỉnh Kuang Tung (Quảng Đông) cho tàu chiến ra thám hiểm đảo. Ngày 20 tháng ba, 1921 tỉnh trưởng Kuang Tung ký một sắc lệnh kỳ lạ sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ đảo Hải Nam. Tuy nhiên, hành động của ông không ai biết đến, vì nó chỉ được ghi chép trong văn bản của địa phương, do đó thế giới không biết đến để bình phẩm hoặc chống lại. Tuy Trung Quốc không đưa người ra chiếm đảo, nhưng Pháp thấy rằng những hành động đó khiến Pháp phải ra tay trước. Thí dụ, năm 1930 thủy thủ đoàn trên tàu La Malicieuse đổ bộ lên nhiều đảo trong quần đảo Hoàng Sa để cắm cờ và mốc chủ quyền”.(20)

                Năm 1927, với tựa đề “Chronique des mines” tác giả bài báo đã đề cập đến việc quần đảo Hoàng Sa là một phần của An Nam nhưng chính phủ Pháp đã không có những hành động thiết thực để chứng minh chủ quyền của An Nam khi đó là nước được Pháp bảo hộ và để cho Trung Quốc nghiễm nhiên coi Hoàng Sa là của Trung Quốc (21).

                Đứng trước tình hình đó, “Ngày 4-12-1931 và ngày 24-4-1932, Pháp phản kháng Chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa”.(22)

                Năm 1933, chính quyền Pháp quyết định thiết lập chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.

                Báo Le journal officiel trong số báo ngày 1 tháng 7 năm 1933, đã đăng tải một thông tin liên quan đến việc các đơn vị hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo và đảo nhỏ nằm trong vùng biển Đông, giữa các đảo của Philippines, Bornéo và Đông Dương.

                “Pháp đã biết đến nhóm đảo này, vào ngày 13 tháng 4 năm 1930, bởi tàu chiến nhẹ “ La Malicieuse”. Ngày 7 và 10 tháng 4 năm 1933, đảo đã được đặt cột mốc xác định chủ quyền bởi các thông báo hạm “ Astrolabe” và “ Alerte”; cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1938, một cột cờ đã được dựng lên bởi tuần dương hạm “ Duguay-Trouin”.(23)

                Cáo thị sát nhập đăng trên báo “Journal Officiel” ngày 26 tháng 7 năm 1933.

                 “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị Hải Quân Pháp thực hiện.”

                Chính phủ Pháp quốc nay long trọng công bố sự kiện chiếm cứ các đảo nêu trên do Hải Quân Pháp thực hiện.

                1.    Trường Sa, tọa lạc tại vĩ tuyến 8 độ 39 Bắc và 111 độ kinh Tuyến Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 13 tháng 4 năm 1930).

                2.    Cồn Am Bang (Amboine) tọa lạc tại vĩ tuyến 7 độ 52 Bắc và kinh tuyến 115 độ 55 Đông cùng một số đảo nhỏ trong vùng.(Chiếm cứ ngày 7 tháng 4 năm 1933).

                3.    Đảo Ba Bình (Ita Aba) tọa lạc tại vĩ tuyến 10 độ 2 Bắc và kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).

                4.    Nhóm hai đảo tọa lạc tại vĩ tuyến 111 độ 29 Bắc, kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng (36).(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).

                5.    Loại Tá (Loaita) tọa lạc tại vĩ tuyến 10 độ 42 Bắc kinh tuyến 114 độ 25 Đông cùng một số đảo nhỏ khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).

                6.    Đảo Thị Tứ (Thitu) tọa lạc tại vĩ tuyến 11 độ 7 Bắc và kinh tuyến 114 độ 16 Đông cùng một số đảo khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).

                Tất cả các đảo nêu trên sẽ thuộc chủ quyền của nước Pháp kể từ ngày hôm nay (công bố nầy có hiệu lực hủy bỏ tất cả các công bố được liệt vào sổ bộ trước đây).

                                                                                                               Ngày 25 tháng 7 năm 1933.

                Để kết luận cho bài viết này, chúng tôi xin mượn lời kết của báo La Nature:

                “Chính phủ Pháp, đã thiết lập sự đô hộ của họ đối với An Nam mà những hòn đảo này thuộc lãnh thổ của An Nam, nên Pháp có quyền sở hữu và trách nhiệm coi sóc đối với lãnh thổ mới này”.(24)

                Chú thích:
                (*) Tất cả những tư liệu được trình bày trong bài viết này chúng tôi thiết nghĩ cũng chưa đủ để làm rõ vấn đề như tựa bài viết mà chúng tôi đã chọn, mong nhận được sự đóng góp thêm của bạn đọc.

                Nhân đây chúng tôi xin chân thành cám ơn các bạn hhhh, Sanleo, Submarine và Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa (HSO) đã  tạo điều kiện cho chúng tôi tiếp cận tài liệu của các bạn.

                (1)(2) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – trong : Chính sách nước ngoài – số 3 – 1939 – năm thứ tư, trang 302-312 (http://www.persee.fr)
                (3) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, phát hành vào ngày 1 và 15 hằng tháng. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (4) Báo Advertiser số ra ngày thứ 3, 29/6/1909, trang 7. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (5) The Advertiser, Monday 5 July 1909, page 8. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (6) Bài báo “L’histoire moderne des iles Paracels” đăng trên tờ báo “L’ Eveil de l’Indochine” số 738 năm thứ 16, phát hành ngày 22/5/1932 tại Hà Nội. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (7) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (8) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (9) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                - Gouvernment général de l’Indochine – Conseil de Gouvernment: Session ordinaire de 1918. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (11) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
                (12) L’Eveil économique de l’Indochine N394: La perte du Haiphong 28/12/1924. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (13) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (14) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (15) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (16) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
                (17) L’ Eveil de l’Indochine N419. Du Charbon pour le “de Lanessan”.1925/06/21. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (18) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
                (19) Océanographie physicque et biologique 1932, 1933. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (20) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
                (21) L’ Eveil de l’Indochine N502 . Chronique des mines . 1927/01/23. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
                (22) Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa-Lãnh Thổ Việt Nam.
                (23) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – Tài liệu đã dẫn.
                (24) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.