29 tháng 7, 2011

ĐÀI TRINH SÁT VÀ CHỈ THỊ MỤC TIÊU MANG VÁC FARA-1

Kỹ thuật Quân sự - Đài 1L111 Fara-1 được thiết kế cho nhiệm vụ trinh sát, phát hiện các mục tiêu đang di chuyển trên mặt đất (như binh sĩ hoặc nhóm binh sĩ, xe cộ và phương tiện cơ giới bọc thép), chỉ thị mục tiêu ngắm bắn cho các loại vũ khí tự động, chống đối phương đánh cường tập ở mọi thời điểm, và điều kiện thời tiết (bao gồm cả trong điều kiện bị sương mù, khói, bụi triệt tiêu tầm nhìn), cũng như giám sát mục tiêu hay khu vực bảo vệ, theo chế độ cảnh giới tự động.

Bên cạnh nhóm nhiệm vụ trinh sát, đài Fara-1 có thể đồng bộ cùng các khí tài quang học và ảnh nhiệt, để làm nhiệm vụ theo dõi giám sát đối tượng. Trên thế giới, xét riêng về tính đa dụng, thì hiện nay hệ thống đài này không có đối thủ tương xứng.

Cấu hình:


Đài Fara-1 bao gồm 1 bộ thu phát sóng, 1 khối an-ten kèm cơ cấu xoay hướng, 1 bảng điều khiển, giá 3 chân, 1 thùng chứa radar, 1 cổng chia phần tử cho súng phóng lựu/súng máy, 1 khối pin tiêu chuẩn và bộ cấp điện dùng nguồn điện của xe chiến đấu. Kết cấu, trọng lượng và kích cỡ của đài, được thiết kế vừa vặn cho 1 trắc thủ mang vác và vận hành.

Thông số kỹ thuật cơ bản:


Băng sóng: xăng-ti-mét
Phạm vi trinh sát:
- Cự ly (km): tới 5
- Phương vị (độ): 24, 45, 90, 120
Cự ly phát hiện mục tiêu đang di chuyển (với xác suất phát hiện 0,8), ít nhất (km):
- Người: 2
- Xe tăng: 4
Sai số định vị mục tiêu:
- Cự ly (m): 20
- Phương vị (mil): 00 - 20
Thời gian triển khai/thu hồi (phút): 1
Thời gian hoạt động liên tục với pin tiêu chuẩn (giờ): 6
Thời gian giữa 2 lần phát sinh sự cố (giờ): 5.000
Trọng lượng (kg): 16,5
Giá bán ước tính: USD 100.000

27 tháng 7, 2011

THAY BIA LÀ CHUYỆN TO, KHÔNG THỂ LẤP LIẾM ĐƯỢC

Phạm Xuân Nguyên tại Pắc Bó, Cao Bằng (8/2010)
Mai Thanh Hải Blog - Hôm trước, mình đăng bài "Đục bỏ thơ Hồ Chí Minh" của bác Phạm Xuân Nguyên, đăng trên Blog Quê choa của bác Nguyễn Quang Lập. Ngay lập tức, nhận được rất nhiều phản hồi, chủ yếu có hơi hướng... địa phương và có người còn mắng té tát mình vì "Mai Thanh Hải viết không đúng", làm mình cười lăn. Hôm qua, đọc trên trang Phạm Viết Đào, thấy sự việc lại chuyển hướng theo cách khác với hình ảnh ông Trưởng Ban Quản lý Khu Di tích tận tình giải thích lý trấu lý do với ông Phạm Viết Đào. Sự việc này, chả dám bình luận, chỉ xin dẫn lại ý kiến của bác Ba Sàm: “Vì chiều lòng du khách nên Ban quản lý du khách làm thêm một phiên bản mới chồng lên để xem phản ứng của du khách…” (Phạm Viết Đào). Chuyện gây ồn ào, bác Đào công phu vô đó mà bài viết, hình ảnh còn sơ sài quá" và "Có lẽ vụ nầy là một điển hình cho một xã hội, với những con người quái đản/bệnh hoạn-ngu xuẩn/mù quáng nhất, từ giới chức (địa phương) cho tới người trí thức (Vũ Khiêu), về nhận thức chính trị, nhãn quan lịch sử, văn hóa, lòng tự trọng, v.v.. Tóm lại là họ làm tui muốn … MỬA (ÓI)!".


Bài viết của Nhà Phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, sau khi có những phản ứng của địa phương và sự truyền tải, tuyên truyền của một số Blog.
-----------------------------------------------------------


THAY BIA LÀ CHUYỆN TO, KHÔNG THỂ LẤP LIẾM ĐƯỢC

1. Việc thay tấm bia khắc lời Hồ Chí Minh viết bằng văn vần về Nguyễn Huệ đặt ở đền thờ Quang Trung (Vinh – Nghệ An) là cả chuyện to. Thứ nhất, lời đã được chọn, bia đã được khắc và dựng ngay khi đền được khánh thành. Thứ hai, lời đây là của Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người anh hùng dân tộc của nước Việt Nam thế kỷ XX, mà tư tưởng và đạo đức của ông đang được Đảng phát động trong đảng ngoài dân học tập và làm theo. Thứ ba, đền thờ mới được khánh thành ngày 7/5/2008, như vậy tấm bia khắc mới được ba năm.
Đảo Đá Lát, Trường Sa

Theo thông tin tôi được biết, việc thay bia (chưa phải đục bỏ chữ trên bia mà là dùng một lớp composite dán đè lên rồi viết chữ mới vào) mới được thực hiện vào ngày 20/5/2011. Ngày 31/5/2011 tại thành phố Vinh có hội thảo “Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng – Trung Đô” do UBND TP Vinh, Viện khảo cổ học, Hội Sử học Việt Nam, Liên hiệp Khoa học Công nghệ – Tin học Ứng dụng (UIA) và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người phối hợp tổ chức. Một chủ đề chính của hội thảo là tìm kiếm nơi mai táng hài cốt của hoàng đế Quang Trung. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học, nhà ngoại cảm trong cả nước đã về dự hội thảo. Họ chắc chắn đã lên thăm đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết, trong số họ chắc chắn nhiều người trước đó đã từng lên đền thờ, đã biết có tấm bia khắc đoạn thơ của Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ đặt ở bên phải từ cửa vào. Nếu đúng là lớp composite phủ lên bia đã có từ ngày 20/5 thì sao họ không phát hiện ra chuyện này và lên tiếng? Mà nếu chính quyền thành phố Vinh và tỉnh Nghệ An muốn có một văn bản khác để thay thế văn bản của Hồ Chí Minh thì sao không tranh thủ cuộc hội thảo có nhiều bậc thức giả tụ hội về để hỏi ý kiến, đề xuất? Một tấm bia khắc lời lãnh tụ mới dựng ba năm đã vội vàng lấp liếm, thay thế bằng hành động dán đè lên khi chưa có quyết định, khi còn đang gọi là “thăm dò dư luận”, lại chỉ mới làm cách đây hai tháng, động thái đó có nghĩa là gì? Câu hỏi xin dành cho những người chịu trách nhiệm trước ngôi đền, trước Nguyễn Huệ, trước Hồ Chí Minh, trước nhân dân?
2 tấm bia "trên - dưới" (ảnh: Blog Phạm Viết Đào) 

 2. Trong những ý kiến phản hồi bài viết trước của tôi, có một số người cho biết lý do duy nhất được đưa ra ở Nghệ An để thay bia là có ai đó cho đoạn thơ của Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ nôm na, lại có chữ “kẻ” nghe không hay, không kính. Đây là một lý do vin vào hình thức bên ngoài mà thực ra là không hiểu biết gì về quan điểm nhân dân của Hồ Chí Minh.

Suốt đời ông Hồ viết và nói cốt cho dân dễ nghe, dễ hiểu, dễ làm. Nhất là khi ông mới về nước sau ba mươi năm ở nước ngoài. Tám mươi phần trăm dân chúng là nông dân, phần đông là thất học, mù chữ, muốn tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho họ thì phải có cách nói làm sao cho họ dễ nhớ, dễ thuộc. Đặc biệt khi nơi đầu tiên tuyên truyền cho dân lại ở vùng núi. Cho nên ông Hồ đã trình bày những điều cao xa, sâu sắc bằng những ngôn từ giản dị, bằng lối nói khẩu ngữ để nhân dân thấy gần gũi, dễ hiểu. Toàn bộ bản diễn ca Lịch sử nước ta dài 208 câu lục bát ông Hồ viết năm 1941-1942 tại Cao Bằng chính là theo tinh thần ấy. Ông kể lần lượt các triều đại với công tích chính là chống giặc ngoại xâm bằng cách nêu tên người anh hùng dân tộc qua mỗi thời kỳ rồi đúc rút thành bài học. Bài học đó luôn luôn là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Đoạn thơ ca ngợi Nguyễn Huệ là tập trung nhất, khái quát nhất cho truyền thống quý báu xuyên suốt lịch sử dân tộc đó. Câu chữ đơn giản mà chính xác, lời thơ mộc mạc mà sâu sắc, làm bật được tư tưởng lớn: Giặc Tàu dẫu hung hăng nhưng non sông nước nhà ta vẫn được dân ta giữ gìn trọn vẹn bởi dân ta biết cùng nhau một lòng và có người lãnh đạo chí cả tài cao. Một dân tộc đồng tâm nhất trí từ trên xuống dưới, từ người cầm quyền đến dân chúng, thì không một kẻ thù nào dù xảo quyệt, mạnh bạo đến đâu, có thể khuất phục. Đánh giá Nguyễn Huệ, đánh giá sức mạnh của Nguyễn Huệ và nhân dân như vậy thật là cao cả, tuyệt vời. Nhưng ở đây ông Hồ không chỉ nói về riêng về một cá nhân, một triều đại, ông khái quát bài học chung, ông rút ra tư tưởng lớn cho cả một trường kỳ lịch sử chống giặc phương Bắc của dân tộc Việt Nam. Chọn đoạn thơ này khắc vào bia đặt ở đền thờ Quang Trung, theo tôi, mới thật là đích đáng.
Phạm Xuân Nguyên trên sân bay đảo Trường Sa Lớn

Còn nói đoạn thơ của Hồ Chí Minh là “nôm na” thì chính sự nôm na đó lại phù hợp nhất với tinh thần, phong thái của “người anh hùng áo vải”. Nguyễn Huệ là người chân thật, mộc mạc trong lời ăn tiếng nói của mình, theo như các sử liệu để lại cho biết. Con người phi thường với thiên tài quân sự lỗi lạc khác lạ đó viết hịch đánh quân Thanh pha trộn cả lời Nôm và lời Hán “đánh cho để dài tóc / đánh cho để đen răng / đánh cho nó chích luân bất phản / đánh cho nó phiến giáp bất hoàn / đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Chính Nguyễn Huệ khi lên ngôi hoàng đế đã có những quyết sách trong văn hóa và giáo dục để đưa chữ Nôm trước nay còn bị xem thường (“nôm na là cha mách qué”) lên địa vị chữ viết chính thức của nước nhà, khi lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam dưới thời ông chữ Nôm được đưa vào thi cử. Khi dân làng Văn Chương (Hà Nội) làm đơn đề nghị cho dựng lại những tấm bia Văn Miếu bị đổ do các trận binh đao, Nguyễn Huệ-Quang Trung đã phê vào đơn bằng hai câu nôm tuyệt vời: “Nay mai dựng lại nước nhà / Bia nghè lại dựng trên tòa nhân gian”. Tôi nhắc lại mấy sự kiện mà ai đọc sử cũng biết để thấy rằng đoạn thơ của người anh hùng dân tộc thế kỷ XX là có sự tương thông tinh thần xuyên lịch sử với người anh hùng dân tộc thế kỷ XVIII được nói đến. Vì vậy, khắc ghi những câu ca có vẻ như “nôm na” của Hồ Chí Minh tại đền thờ Quang Trung lại có thêm ý nghĩa nhắc nhở cháu con về một phương diện văn hóa đầy ý thức dân tộc của vị hoàng đế phi thường này.

Trong 208 câu của bản diễn ca lịch sử, ông Hồ ba lần dùng chữ “kẻ”. Đầu tiên là với ông vua sáng lập nhà Lý: “Công Uẩn là kẻ phi thường”. Y như câu cho Nguyễn Huệ. Ông Hồ chỉ dùng chữ “phi thường” cho hai nhân vật lịch sử này vì quả là họ phi thường thật: Lý Công Uẩn là người có nhãn quan chính trị lớn nên đã dời đô từ rừng núi về đồng bằng, mở đầu thời đại phát triển độc lập của quốc gia Đại Việt; Nguyễn Huệ là người có thiên tài quân sự đột biến trong lịch sử Việt Nam, đánh nhanh thắng nhanh, thần tốc, táo bạo. Nói vậy để thấy ông Hồ dùng chữ “kẻ” ở đây không hề là khinh xuất. Trước khi nói về Nguyễn Huệ, từ “kẻ” lại được ông Hồ dùng để chỉ cả ba anh em nhà Tây Sơn: “Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau / Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng / Dân gian có kẻ anh hùng / Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn”. Chữ “kẻ”, như thế, dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh không hề là xách mé, tầm thường, mang nghĩa coi nhẹ nhân vật. Ngược lại, nó chỉ người đáng trọng, đáng kính. Như trong tên gọi “ kẻ sĩ”. Như trong tục ngữ ai cũng biết: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Hay trong câu đối truyền miệng: “Bác là kẻ cả trong làng / Tôi là người sang ở nước”. Lại cũng ở bản diễn ca có câu “Mấy năm ra sức Cần Vương / Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên” khi ông Hồ viết về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chống Pháp. Nếu vin vào bốn chữ “bọn ông Tán Thuật” để nói ông Hồ là “thất lễ” với tiền nhân thì quả đọc chữ không vỡ chữ.
Phạm Xuân Nguyên - Mai Thanh Hải tại cột mốc 422, Hà Giang

 3. Một phản hồi có dẫn ra công văn nói về việc tổ chức thi tuyển và thực hiện văn bia đền thờ Vua Quang Trung. Công văn này do UBND thành phố Vinh và Hội đồng thi tuyển và thực hiện văn bia đền thờ Vua Quang Trung đưa ra, được chủ tịch UBND thành phố là Nguyễn Hoài An ký. Theo như thời gian nhận bài thi được nêu trong công văn là từ 11/7/2008 đến 10/8/2008 và theo câu viết trong phần “Mục đích” cuộc thi rằng “Trên cơ sở nội dung đã được lựa chọn, phê duyệt, tiến hành xây dựng lại công trình văn bia xứng tầm với quy mô của công trình.” (mấy chữ in nghiêng của tôi – PXN) thì biết được là cuộc thi này nhằm để thay bia – thay hai tấm bia đã được dựng lên từ đầu ở đền thờ. Xin nhắc lại là đền thờ Quang Trung ở Vinh mới được khánh thành ngày 7/5/2008. Như vậy, vừa khánh thành đền thờ xong thì đã thay bia. Tại sao lại thế? Có phải đoạn thơ của Hồ Chí Minh được chọn và được khắc từ đầu là sai lầm? là không “xứng tầm với quy mô của công trình”? Mà thời gian nhận bài thi chỉ trong vòng một tháng, lại là thi văn bia – một thể loại cổ văn ngày nay ít người am hiểu và viết được, thì mong thu được cái gì? Rốt lại thì cái công văn này, theo người phản hồi cho biết, không phải là chính thức, mà chỉ là “bản dự thảo công văn, được gửi tới qua mail cho một số người được hỏi ý kiến trước.” Nếu như đây là có thật, thì nội một việc đó thôi đã cho thấy sự không nghiêm túc của những người lập bia, dựng bia, bỏ bia, và thay bia!
Thác Bản Giốc, Cao Bằng

 4. Tôi đang viết bài này thì nhận được mấy cú điện bảo vào trang blog Phạm Viết Đào đọc đi. Tôi vào thấy bài “Nghệ An không đục xóa thơ của cụ Hồ Chí Minh trên văn bia tại đền thờ Quang Trung”. Ông Đào viết: “Ông Trần Ngọc Lữ  (trưởng ban quản lý di tích) đã đưa tôi ra tấm bia để giải trình về chuyện này. Theo ông Lữ thì nhiều du khách đến thăm đền có đặt dấu hỏi: Tại sao lại gọi Hoàng đế Quang Trung là “kẻ; đây là bài thơ Cụ Hồ viết trước 1945, từ “kẻ“ không mang ý nghĩa miệt thị vì Hà Nội còn được gọi là “kẻ chợ“… Vì chiều lòng du khách nên Ban quản lý du khách làm thêm một phiên bản mới chồng lên để xem phản ứng của du khách… Vì thế nên đã dẫn tới sự hiểu nhầm: Nghệ An xóa thơ cụ Hồ Chí Minh viết về Quang Trung tại Đền thờ Quang Trung vừa được xây dựng trên núi Dũng Quyết…” Hình như ông bí thư tỉnh ủy Nghệ An cũng vừa tuyên bố như ông trưởng ban quản lý di tích này, nếu đọc trên một blog khác. Lạ thật. Lấy bản mới dán chồng lên bản cũ, che lấp bản cũ, không cho ai đọc được bản cũ, như vậy không gọi là xóa thì gọi là gì? Đâu phải đục bỏ bia thì mới coi là xóa bỏ. (Ở Hà Nội, tấm bia tưởng niệm Alexandre de Rhohdes ở đền Bà Kiệu trước đây cũng bị cất bỏ lâu nay trong kho, không được đem ra dựng ở đâu, thì như thế cũng coi như là xóa bỏ những lời ghi trên bia về công lao của vị giáo sĩ này đối với chữ quốc ngữ nước ta). Nói “chiều lòng du khách” thì là chiều lòng ai, khi những khách thắc mắc là đã có đọc tấm bia khắc lời ông Hồ, còn những khách đến sau thì sao, khi họ đã bị bịt mắt trước những lời ông Hồ nói về Nguyễn Huệ bởi lớp dán chồng lên đó? Rồi những khách thăm cũ, như tôi chẳng hạn, bây giờ trở lại đền thờ, muốn coi lại tấm bia có khắc đoạn thơ ông Hồ viết về Nguyễn Huệ mà mình đã biết (cũng là một dạng “thắc mắc” đấy, khi thấy bia bị dán đè lên) thì ban quản lý có “chiều lòng du khách” là tôi để lột bỏ lớp dán mới đi cho tôi được xem tấm bia cũ hay không? Nhưng điều nghiêm trọng ở đây là: Ở chốn đền thờ trang nghiêm, trên một tấm bia uy nghi, khắc ghi lời lãnh tụ, tại một khu di tích lịch sử cấp quốc gia, ai đã dám quyết định cho phép làm cái việc tày đình là dán đè, phủ lấp bài văn bia đang hiện có, mà chỉ với lý do “chiều lòng du khách”? Luật Di sản văn hóa có cho phép vậy không? Rồi nếu sau một thời gian thấy văn bản mới không hợp, không được du khách đồng tình, thì người ta lại thản nhiên bóc lớp dán ra, để lại phơi ra bản văn bia cũ, tức là đoạn thơ của Hồ Chí Minh, hay sao? Thật tùy tiện và cẩu thả hết chỗ nói. Dán một tờ thông cáo này đè lên một tờ thông cáo khác trên bản tin còn phải thận trọng, cân nhắc, huống chi đây là cả một tấm bia đá lớn, một tấm bia đá khắc ghi những lời đánh giá lịch sử của một vĩ nhân về một vĩ nhân. Như vậy, hành động dán đè lên bia còn tệ hại và nguy hiểm hơn đục bỏ bia. Tôi coi đó là hành động bịt miệng Hồ Chí Minh! Mà lý do vì sao thì tôi đã nói ở bài trước.
Dọc đường lên Tây Bắc

 5. Yếu tố Tàu trong chuyện này là không thể loại bỏ. Nhất là trong thời điểm hiện tại. Nếu không vì mấy chữ gọi nước láng giềng là Tàu, lại thêm những lời ca ngợi chiến công đánh Tàu của dân ta dưới tài thao lược của Nguyễn Huệ thì tôi dám chắc đoạn thơ của Hồ Chí Minh đã không bị xét nét đến nỗi đành chịu che phủ, dán đè. Nghĩ cũng là ghê. Những ý chê đoạn thơ không nói được công lao thống nhất đất nước của Nguyễn Huệ, hay chỉ nói giặc Tàu mà không nói giặc Xiêm, rõ ra là của người không chịu tìm hiểu lịch sử nước nhà. Xiêm chưa bao giờ là kẻ thù thường trực, nguy hiểm của nước ta. Tàu mới là mối nguy cơ chính. Công lao thống nhất đất nước, định vị một Việt Nam lãnh thổ và chủ quyền như ngày nay, là công của Nguyễn Ánh trên cái “mặt bằng” đã được Nguyễn Huệ dọn dẹp. Đó là sự thật lịch sử. Yếu tố Tàu trong chuyện này cho thấy sự nhạy cảm chính trị của những người có trách nhiệm ở Nghệ An là vừa có vừa không. Không là đối với nhân dân trong nước, họ dư biết rằng việc che lấp lời Hồ Chí Minh tại đền thờ Quang Trung một cách hấp tấp, tùy tiện vào thời điểm như hiện nay là động đến cả ý thức dân tộc và lòng yêu nước của dân ta, vậy mà họ vẫn làm ngang nhiên, đặt toàn dân trước việc đã rồi. Có là đối với ai đó bên ngoài, họ sợ những phản ứng của cái nơi được gọi thẳng tên trong bài văn bia. Mọi người có quyền suy luận và nghĩ như vậy trước thực tế những gì đã xảy ra quanh tấm bia mang lời Hồ Chí Minh nói về Nguyễn Huệ tại đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết (Vinh – Nghệ An).

            Tóm lại, thay bia là chuyện to, không thể lấp liếm được. Chỉ nêu câu hỏi chót: Nghệ An không xóa thơ Hồ Chí Minh trên bia, vậy khi nào Nghệ An bóc tấm dán đi để thơ Hồ Chí Minh lại hiện ra trên bia trước mắt mọi người? Hay rồi đây dựng tấm bia mới, còn tấm bia có lời ông Hồ sẽ bị đưa vào kho để chìm trong bóng tối mãi mãi, hoặc tệ hơn sẽ bị đục bỏ một cách âm thầm, và như thế là hoàn tất một quá trình dựng bia và phá bia mang ngôn từ và tư tưởng Hồ Chí Minh?

 Hà Nội 26.7.2011

Phạm Xuân Nguyên


Nguồn bài viết: Quê choa Blog

26 tháng 7, 2011

TRƯỜNG SA LỚN, THÁNG 5/1988

Các nhà báo, diễn viên trong chuyến ra công tác tại đảo Trường Sa Lớn, tháng 5/1988. Từ trái sang phải: Nam ngồi đầu tiên, đội mũ trắng là anh Phạm Đình Quát (Quốc doanh nhiếp ảnh Phú Khánh); nam ngồi cạnh, tóc dài là cố Nhạc sĩ Xuân An (Sở VHTT Phú Khánh), trong chuyến đi này, khi tới đảo Phan Vinh, chứng kiến và tham gia buổi tắm mưa với các bộ đội, Nhạc sĩ Xuân An đã sáng tác bài "Mưa Trường Sa" với lời ca, giai điệu mộc mạc, ân tình đầy chất lính nhưng cũng đấy khát khao cuộc sống, với những điều trong trẻo, tự nhiên: "Mưa! Trời mưa! Á ha, trời mưa! Từng đôi chân bay qua chiến hào, thoáng giây ngập ngừng, giữa thềm san hô, đón dòng nước ngọt" và "Mưa Trường Sa! Là giọt sương trên nụ hoa thắm tươi bình minh. Mưa Trường Sa, là nụ hôn cho tình yêu phút đầu gặp em... Mưa đi mưa đi đảo nhỏ chờ mưa. Mưa đi mưa đi, chúng tôi cần mưa..."; nữ đứng sau, giữa Phạm Đình Quát và Xuân An là ca sĩ Anh Đào; nữ đeo kính ngồi cạnh Xuân An là ca sĩ Thanh Thanh. Cả 2 chị là ca sĩ của Đoàn Ca múa Hải Đăng (Phú Khánh); Những người xung quanh là anh Nguyễn Viết Thái (đội mũ rộng vành, đứng sau Ca sĩ Thanh Thanh - phóng viên ảnh kiêm viết, chuyên theo dõi mảng Quân đội của Báo Phú Khánh) và các phóng viên của Tạp chí Hải quân, NXB Quân đội, Xưởng phim Quân đội, Đài Truyền hình TP.HCM, Quốc doanh Chiếu bóng Phú Khánh... và cán bộ Quân chủng Hải quân (Nguồn: Thiềm Thừ Blog)

Xin ngàn lần cảm ơn các anh chị và rất nhiều những anh chị khác đã mang những lời ca tiếng hát, điệu múa, thước phim, tấm ảnh, câu chuyện đất liền ra với bộ đội Trường Sa trong những ngày gian khổ, lửa đạn ấy. Sự có mặt của các anh chị trong những lúc "nước sôi lửa bỏng", "hòn đạn mũi tên", chấp nhận hy sinh bởi đạn thù, đã là nguồn động viên, niềm tin trực tiếp cho lính đảo, sẵn sàng hy sinh như những đồng đội đã hy sinh 1 tháng trước (14/3/1988), để bảo vệ Trường Sa. Các anh chị còn là nguồn chuyển tải cuộc sống, chiến đấu của đảo về đất liền, với người thân để lính đảo an tâm: "Cả đất liền đang dõi ra nhìn đảo". Xin nghìn vạn lần cảm ơn các anh chị, đạp sóng biển, chấp nhận đạn bom, ra với lính đảo, những ngày 1988.


Bài hát: "Mưa Trường Sa". Sáng tác và trình bày: Nhạc sĩ Xuân An

THẮP HƯƠNG LIỆT SĨ

Chào cờ Tổ quốc trên đỉnh chốt Biên phòng Lai Châu
Mai Thanh Hải Blog - Ngày 27/7. Xin thắp nén hương tưởng nhớ những người đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. 

Tự dưng, mình cứ luẩn quẩn với bài thơ in trong tập: "Hà Nội - Một thời trai chinh chiến", không hiểu nhớ của tác giả nào, viết về tâm trạng người mẹ khóc con trai mình hy sinh nơi "xa lắc xa lơ":


"Ngày con lên đường, phiếu xanh, bìa đỏ  

Mái phố nghèo ấm áp tiễn con đi 
Giấy gọi con vào Trường Đại học Y 
Mẹ xếp phẳng đợi con về đi học. 

Mộ Liệt sĩ Đỗ Khánh Hưng (hy sinh 2008), trên đảo Sơn Ca, Trường Sa
Bốn năm sau nhận tin con vừa mất 
Nơi chiến trường xa lắc, xa lơ 
Mẹ dại điên sống quanh quẩn bàn thờ 
Lúc nhắm mắt ôm con về với đất. 

Máu Mẹ chảy nơi chiến trường ác liệt 
Xương Mẹ tan cát bụi chỗ con nằm 
Vía gọi hồn khắc khoải đến ngàn năm 
Cỏ mãi xanh, khôn thiêng về với Mẹ".


Tưởng nhớ đến người đã ngã xuống nhưng không quên tri ân những người còn đang sống, đã đóng góp 1 phần thân thể, phần đời và cả những người thân, ruột thịt cho những cuộc chiến tranh khốc liệt trên dải đất S.
--------------------------------------------------------------------------------------------------


Các cựu chiến binh thắp hương cho Liệt sĩ hy sinh tại Trường Sa (có mộ phần trên đảo Nam Yết), 5/2011

Lễ Tưởng niệm 64 Liệt sĩ hy sinh ngày 14/3/1988 trên vùng biển Cô Lin, Gạc Ma (4-2011)


Mộ Liệt sĩ, Thượng úy Phạm Văn Thế trên đảo Sơn Ca

Con gái Miu thắp hương cho các Liệt sĩ đồng hương Hà Tây, tại Nghĩa trang Trường Sơn (7/2006)


Ba Hải thắp hương cho các Liệt sĩ Trường Sơn (7/2010)

Ba Hải thắp hương cho Liệt sĩ hy sinh trên đảo Nam Yết, Trường Sa (4/2010)

Miu ở Nghĩa trang Trường Sơn
Mẹ Hằng và Khoai thắp hương các Liệt sĩ Thanh niên xung phong tại Đồng Lộc, Hà Tĩnh (11/2010)

Khoai đánh vần tên tuổi các Liệt sĩ  TNXP đã hy sinh trong Kháng chiến chống Mỹ 


Hoa cúc trắng gửi cho người nằm dưới lòng biển sâu

25 tháng 7, 2011

CAY MẮT Ở ĐẢO PHAN VINH, THÁNG 5/1988

Ca sĩ Anh Đào (Đoàn Ca nhạc Hải Đăng, Phú Khánh) với các chiến sĩ bảo vệ đảo Phan Vinh, tháng 5/1988. Ca sĩ Anh Đào là người đầu tiên hát bài "Gần lắm Trường Sa" do nhạc sĩ Hình Phước Long sáng tác năm 1982 và đây là bài hát thành công nhất của chị. Những năm 80-90, mỗi khi có Đoàn từ đất liền ra thăm đảo, các chiến sĩ Trường Sa đều tíu tít hỏi: "Có ca sĩ Anh Đào không?". Chuyến công tác ra Trường Sa tháng 5/1988 của Anh Đào, chỉ gần 1 tháng sau khi diễn ra sự kiện 14/3/1988 (khiến 64 cán bộ - chiến sĩ Hải quân Việt Nam hy sinh dưới làn đạn tấn công của lính Trung Quốc, tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma) là chuyến đi gian khổ nhất và đoàn công tác chấp nhận đụng độ với tàu chiến, lính Trung Quốc khi trên đường ra với đảo và các chiến sĩ Hải quân (ảnh: Nguyễn Viết Thái, nguồn: Thiềm Thừ Blog).

DANH SÁCH LIỆT SỸ HY SINH NGÀY 14/3/1988 TẠI TRƯỜNG SA

Bia ghi tên các Liệt sĩ tại Cam Ranh, Khánh Hòa
Mai Thanh Hải Blog - Ngay sau khi diễn ra sự kiện 14/3/1988 trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma (Trường Sa, Khánh Hòa), Nhà nước - nhân dân ta đã cực lực phản đối hành động dã man của nhà cầm quyền Trung Quốc và trên thực tế, đã có sự chuẩn bị - sẵn sàng đối phó nếu sự việc tương tự xảy ra một lần nữa. Minh chứng rõ nhất là những bài đăng trên Báo Nhân dân và tin - phóng sự trực tiếp từ hiện trường đảo chìm Cô Lin, do Nhà báo Trần Bình Minh (nay là Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam) thực hiện, phát liên tục trên sóng của Đài Truyền hình Việt Nam.

Chủ nhật vừa rồi, thấy bà con cầm tờ giấy A4 ghi tên những Liệt sĩ hy sinh ngày 14/3/1988, bạn mình dụi mắt lắc đầu: "Có những cái tên Liệt sĩ mới nghe lần đầu!".
Đài Tưởng niệm

Hôm nay, thấy trang của TS Nguyễn Xuân Diện đăng Entry "Lời tạ lỗi", do ai đó viết, gửi đến "Những người tham gia biểu tình và các công dân Việt Nam khác" (Nghe "hùng hồn" như thể... "Thánh chỉ"! Kinh!), mới thấy là bạn mình đúng. Té ra, người ta in tên mấy người còn đang sống, làm thành "Liệt sỹ hy sinh tại Trường Sa, 14/3/1988" và giơ ra, như... cán bộ chính sách.

Xin được nói rõ: Ngày 28/3/1988, Báo Nhân dân đã công bố danh sách 74 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam "bị mất tích do tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc". Sau này, đã xác định một số cán bộ - chiến sĩ bị phía Trung Quốc bắt làm tù binh. Như vậy, số chiến sĩ hy sinh trong ngày 14/3/1988 là 64 người và từ tháng 4/1988, những người nằm xuống đều được Nhà nước truy tặng Liệt sỹ, gia đình - người thân của họ đều được hưởng mọi chế độ dành cho Liệt sỹ

Bây giờ, nếu ai đi từ sân bay Cam Ranh về thành phố Nha Trang, nếu để ý sẽ thấy Tượng đài Tưởng niệm các quân nhân Liên Xô (cũ) và Việt Nam đã hy sinh vì hòa bình và ổn định khu vực bằng đá hoa cương cao trên 20 mét, với biểu tượng chiếc máy bay chiến đấu lao vút lên trời cao và 2 người lính công kênh bé em trên vai.
Tổ quốc và nhân dân ghi công các anh

Nếu ai đó thực sự tưởng nhớ, biết ơn 44 quân nhân Liên Xô/ Nga và 176 quân nhân Việt Nam đã ngã xuống ở khu vực Cam Ranh, miền Trung, hãy dừng lại thắp 1 nén hương, cúi đầu tưởng niệm và đọc tên những người đã nằm xuống. Những người lính hy sinh ở Cô Lin - Gạc Ma, Trường Sa năm 1988, đều có 1 ngày hy sinh chung nhất: 14/3.

Nhắc đến lịch sử là nhắc đến tính chính xác và tôn trọng sự thật. Nhất là sự thật này làm bằng máu, bằng mạng sống của 64 người lính Việt, rất trẻ và rất linh thiêng... trên vùng biển Cô Lin-Gạc Ma phẳng lặng, giữa sóng cuộn gió gào Trường Sa biển xanh, máu đỏ.
---------------------------------------------------------------------------

DANH SÁCH LIỆT SỸ HY SINH NGÀY 14/3/1988

(Danh sách do Phòng Chính trị, Lữ đoàn 146, Vùng 4 - Hải quân cung cấp)

SttHọ tênNăm sinhCấp bậcChức vụNhập ngũĐơn vịQuê quán
1 (2+39)Trần Văn Phương1965Thiếu uýB trưởng3-1983Gạc MaQuảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình
2 (1)Trần Đức Thông1944Trung táLữ phó 1464-1962Gạc MaMinh Hoà, Hưng Hà, Thái Bình
3 (40)Nguyễn Mậu Phong1959Thượng uýB trưởng11-1977Gạc MaDuy Ninh, Lệ Ninh, Quảng Bình
4 (41)Đinh Ngọc Doanh1964Trung uýB trưởng9-1982Gạc MaNinh Khang, Hoa Lư, Ninh Bình (Cam Nghĩa, Cam Ranh, Khánh Hoà)
5 (42)Hồ Công Đệ1958Trung uý (QNCN)Y sĩ2-1982Gạc MaHải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
6 (43)Phạm Huy Sơn1963Chuẩn uý (QNCN)Y sĩ2-1982Gạc MaDiễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An
7 (44)Nguyễn Văn Phương1969Trung sĩCơ yếu3-1987Gạc MaMê Linh, Đông Hưng, Thái Bình
8 (45)Bùi Bá Kiên1967Trung sĩChiến sĩ3-1986Gạc MaVăn Phong, Cát Hải, Hải Phòng
9 (46)Đào Kim Cương1967Trung sĩBáo vụ2-1985Gạc MaVương Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
10 (47)Nguyễn Văn Thành1967Trung sĩChiến sĩ3-1982Gạc MaHương Điền, Hương Khê, Hà Tĩnh
11 (48)Đậu Xuân Tứ (Tư)1964Trung sĩChiến sĩ3-1985Gạc MaNghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An
12 (49)Lê Bá Giang1968Hạ sĩBáo vụ3-1987Gạc MaHưng Dũng, Vinh, Nghệ An
13 (50)Nguyễn Thanh Hải1967Hạ sĩQuản lý3-1986Gạc MaSơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh
14 (51)Phạm Văn Dương1967Hạ sĩA trưởng3-1986Gạc MaNam Kim 3, Nam Đàn, Nghệ An
15 (52)Hồ Văn Nuôi1967Trung sĩChiến sĩ8-1985Gạc MaNghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ An
16 (53)Cao Đình Lương1967Trung sĩA trưởng8-1985Gạc MaTrung Thành, Yên Thành, Nghệ An
17 (54)Trương Văn Thịnh1966Trung sĩChiến sĩ8-1985Gạc MaBình Kiến, Tuy Hoà, Phú Yên
18 (55)Võ Đình Tuấn1968Trung sĩQuản lý8-1986Gạc MaNinh Ích, Ninh Hoà, Khánh Hoà
19 (56)Phan Tấn Dư1966Trung sĩBáo vụ2/1986Gạc MaHoà Phong, Tây Hoà, Phú Yên
20 (3)Vũ Phi Trừ1955Đại uýThuyền trưởngHQ604Đội 10, Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hoá
21 (101)Vũ Văn ThắngThượng uýThuyền phóHQ604Văn Hàn, Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình
22 (98)Phạm Gia Thiều1962Thượng uýThuyền phóHQ604Hưng Đạo, Đông Hạ , Nam Ninh , Nam Định
23 (99)Lê Đức Hoàng1962Trung uýThuyền phóHQ604Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
24 (102)Trần Văn Minh1962Thiếu úy (QNCN)Máy trưởngHQ604Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ An
25 (103)Đoàn Khắc Hoành1959Thượng sĩTrưởng thông tinHQ604163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân, Hải Phòng
26 (106)Trần Văn Chức1965Hạ sĩNv cơ điệnHQ604Đội 1, Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình
27 (109)Hán Văn Khoa1962Trung sĩNv cơ điệnHQ604Đội 6, Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ
28 (111)Nguyễn Thanh Hải1968Hạ sĩChiến sĩHQ604Mỹ Ca, Chính Mỹ, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng
29 (104)Nguyễn Tất Nam1967Hạ sĩChiến sĩHQ604Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ An
30 (105)Trần Khắc Bảy1967Hạ sĩChiến sĩHQ604Lê Hồ, Kim Bảng, Hà Nam
31 (110)Đỗ Viết Thành1964Hạ sĩChiến sĩHQ604Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hoá
32 (113)Nguyễn Xuân Thuỷ1967Hạ sĩChiến sĩHQ604Phú Linh, Phương Đình, Trực Ninh , Nam Định
33 (120)Nguyễn Minh Tân1956Thượng uýE83 công binhHQ604Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình
34 (129)Võ Minh Đức1968Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Liên Thuỷ, Lệ Ninh, Quảng Bình
35 (131)Trương Văn Hướng1966Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
36Nguyễn Tiến DoãnBinh nhấtA trưởng E83HQ604Ngư Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
37 (133)Phan Hữu Tý1966Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Phong Thuỷ, Lệ Thủy, Quảng Bình
38 (140)Nguyễn Hữu Lộc1968Binh nhìChiến sĩ E83HQ604tổ 22 Hoà Cường, Đà Nẵng
39 (141)Trương Quốc Hùng1967Binh nhìChiến sĩ E83HQ604tổ 55, Hoà Cường, Đà Nẵng
4 (142)Nguyễn Phú Đoàn1968Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604tổ 47, Hoà Cường, Đà Nẵng
41 (137)Nguyễn Trung Kiên1968Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Nam Tiến, Nam Ninh , Nam Định
42 (143)Phạm Văn Lợi1968Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Tổ 53, Hoà Cường, Đà Nẵng
43 (123)Trần Văn Quyết1967Binh nhìChiến sĩ E83HQ604Quảng Thuỷ, Quảng Trạch, Quảng Bình
44 (146)Phạm Văn Sỹ1968Binh nhìChiến sĩ E83HQ604tổ 7, Hoà Cường, Đà Nẵng
45 (144)Trần Tài1969Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604tổ 12, Hoà Cường, Đà Nẵng
46 (145)Lê Văn Xanh1967Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604tổ 38, Hoà Cường, Đà Nẵng
47 (139)Lê Thể1967Binh nhìChiến sĩ E83HQ604tổ 29 An Trung Tây, Đà Nẵng
48 (138)Trần Mạnh Việt1968Binh nhìChiến sĩ E83HQ604Tổ 36, Bình Hiên, Đà Nẵng
49 (121)Trần Văn Phòng1962Thượng uýC trưởng E83HQ604Minh Tân, Kiến Xương, Thái Bình
50 (122)Trần Quốc Trị1955Binh nhấtA trưởng E83HQ604Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
51 (147)Mai Văn Tuyến1968Binh nhìChiến sĩ E83HQ604Tây An, Tiền Hải, Thái Bình
52 (127)Trần Đức Hoá1966Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
53 (125)Phạm Văn Thiềng1967Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
54 (134)Tống Sỹ Bái1967Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Khóm 3, phường 1, Đông Hà, Quảng Trị
55 (135)Hoàng Anh Đông1967Binh nhìChiến sĩ E83HQ604Khóm 2, phường 2, Đông Hà, Quảng Trị
56 (126)Trương Minh Phương1963Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình
57 (128)Hoàng Văn Thuý1966Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
58 (131)Võ Văn Tứ1966Binh nhấtChiến sĩ E83HQ604Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
59 (100)Phan Hữu Doan1960Trung uýThuyền phóHQ605Chí Tiên, Thanh Hòa, Phú Thọ
60 (112, 114)Bùi Duy Hiển1966Trung sĩBáo vụHQ605Thị trấn Diêm Điền, Thái Thuỵ, Thái Bình
61 (169)Nguyễn Bá Cường1962Thượng sĩHọc viên HVHQHQ605Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam
62 (170)Kiều Văn Lập1963Thượng sĩHọc viên HVHQHQ605Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội
63 (171)Lê Đình Thơ1957Thượng uý (QNCN)Nv đoàn 6HQ605Hoằng Minh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá
64 (172)Cao Xuân Minh1966Binh nhấtChiến sĩ đoàn 6HQ605Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá

Danh sách CBCS Hải quân mất tích, đăng trên Báo Nhân dân ngày 28/3/1988

Tên Liệt sĩ hy sinh 14/3/1988 tại Trường Sa, trên bia tưởng niệm đặt tại Cam Ranh