13 tháng 10, 2012

CHẢ PHE NÀO THẮNG

SGTT - Như thông lệ, cuối Thu, Thuỷ Tinh lại kéo quân vào bờ để đấu với Sơn Tinh.

Nhưng đã mấy lần khua chiêng gióng trống mà phía Sơn Tinh vẫn lặng như tờ.

Mãi mới thấy Mỵ Nương cầm cờ trắng lấp ló, áo quần rách rưới, thân thể hao gầy. Thuỷ Tinh chưng hửng:
– Ủa, thế tinh binh của nàng đâu: Hổ? Voi? Bò tót?...

Mỵ Nương ngơ ngác:
– Mấy con đó là con gì? Nghe... quen quen nhưng không nhớ chúng hình dáng ra sao?.

Thuỷ Tinh kêu trời:
– Than ôi, nếu không bệnh Alzheimer thì chắc nàng phải bị cướp bóc tàn tệ, mới thê thảm thế này!.

– Đừng xúc cảm, cũng đừng trông mong gì nữa vì em là gái đã có chồng!.

– Sao nàng nói thế, bởi giờ nàng vừa ốm đói mà lại già nua! Hôm nay ta đến đây, chẳng qua theo thông lệ mọi năm!...

– Ra vậy. Lâu nay chồng em và nhà bác đấu đá nhau hoài em cũng chán, nhưng phận bé mọn biết làm sao, chỉ mong bác hiểu ra rằng: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh, phe nào thắng thì nhân dân đều bại!”.

Thuỷ Tinh vỗ đùi:
– Nàng nói chí phải, chẳng qua Biển Đông giờ khó sống nên ta định vào đây giành giựt với vợ chồng nàng một mảnh đất cắm dùi!.

– Nhưng dẫu cắm được cái dùi thì lấy chi mà sống? Tài nguyên đã cạn, một mẩu kỳ nam bằng ngón út có sót lại thì con người cũng mót sạch, có đâu đến bác?..

– Tệ vậy sao? Thôi, không nói chuyện với nàng nữa! Sơn Tinh đâu ra đây ta hỏi?.

– Thế bác không biết gì à? Trước cảnh rừng hoang núi trọc, muông thú tận diệt, nhà em suy kiệt rồi thác đã mấy tháng!.

Thuỷ Tinh nghẹn ngào:
– Không ngờ tinh ấy bạc mệnh sớm thế. Nghĩa tử là nghĩa tận, chồng nàng an táng ở đâu để ta đến viếng?.

Mỵ Nương khóc ồ:
– Than ôi, chồng em sau khi qua đời người ta đã nhồi bông bán mất, đến nay vẫn chưa biết đang được trưng trong dinh thự của đại gia nào!..

Người già chuyện
***
Hình ảnh trong bài (cuộc sống - sinh hoạt ở một số địa phương nông thôn - đô thị miền Nam sau ngày Giải phóng và trong thời kỳ bao cấp, đăng trên corbis), chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến bài viết nguyên bản, đăng tải trên Báo Sài Gòn Tiếp thị.

TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI

Mai Thanh Hải - Dùng chữ này, mới chính xác về "hoàn cảnh" của cô giáo Hà Thị Thu Thủy (Giáo viên dạy Văn, Trường THCS Lômônôxôp, Từ Liêm, Hà Nội) những ngày này.

Nguồn cơn bắt đầu từ việc cô Thủy cho điểm 8 bài viết của học sinh bình mấy câu ca dao ngày xưa viết về Hồ Tây (Hà Nội), khiến "Phụ huynh phát hoảng khi thấy con bình: Canh gà Thọ Xương là món canh gà của Hà Nội" (nguyên văn chữ dùng của báo chí) và vị phụ huynh này "méc" với 1 phóng viên, sau đó báo chí ào ào lao vào xâu xé, "đánh hội đồng" cô giáo trẻ tuổi đời, ít tuổi nghề, khiến cô giáo phải làm Đơn xin nghỉ việc, về quê, vào Bệnh viện điều trị.

Lâu lắm rồi, mình không đọc báo, nhất là báo mạng. Hôm ngồi quán bia, nghe mấy ông bạn phàn nàn: "Cách viết của Vnexpress không khác gì đẩy người ta vào chân tường. Cô giáo này mà quẫn lên tự tử, chúng nó lại có thêm đề tài để... kim bôi thêm nữa. Quá lá cải và mất tính người!", mới lẩn mẩn tìm đọc, để rồi lắc đầu cùng tiếng thở dài của đám bạn: "Thế này, cái lão trong Quy Nhơn tố cũng phải!"..

Hết báo "đánh", đến báo "bênh", khiến chủ đề "Cô giáo Thủy - Canh gà" trở nên hót, hơn cả những việc "đại sự quốc gia" đang được bàn bạc trong Hội nghị TW6, làm quên luôn việc "Trung Quốc liên tục có những động thái xâm phạm chủ quyền Việt Nam" mãi tít Hoàng Sa, lấp luôn chuyện giá cả ngày một tăng - đời sống người dân tụt xuống, như chơi đồ hàng trên cát...

Xuôi ngược và tanh bành, mình tâm đắc nhất câu than thở của 1 Nhà báo lớn trên FB: "Lãnh đạo đi họp Tối mật, không khánh thành - khai trương - động thổ, báo chí chả có gì đưa, đâm ra tội nghiệp cô giáo Canh gà Thọ Xương và thằng cu bắt cóc trẻ con"...

Khổ! Báo chí bay giờ, phần đa là như thế đấy. Căn bệnh "đánh hội đồng", "hiếp dâm tập thể" tưởng chỉ xảy ra ở những vụ việc lớn, có tý màu mè... nhưng giờ lại diễn tiếp ở khía cạnh xã hội, đơn thuần mục đích "kiếm tý định mức bài vở - nhuận bút".

Đã thế, hành vi này lại được tiếp tay bởi vô số những người viết (không phải Nhà báo - Phóng viên), ngày đêm mài đũng quần trên ghế, lướt mạng tìm thông tin, xào xáo thành tin - bài - ảnh lâm ly bi đát, câu khách - giật gân...

Hậu quả nhãn tiền, nhìn ngay lúc này là cô giáo Hà Thị Thu Thủy dạy Văn bị chính những người học - làm trong nghề Văn chương chữ nghĩa lao vào cắn xé, móc máy, tìm ra mọi chi tiết "công tằng tổ tỷ" từ hồi còn nhỏ, sống ở nhà, đi học, đi làm... và trưng lên trang nhất, khiến 1 thân cô trần trụi, đỡ không nổi...

Đến cô giáo đàn bà con gái, quá trẻ tuổi đời - tuổi nghề và với cái lỗi như vậy, mà còn bị "phang" tới tấp, thành trụi trần giữa bầy sói đói tin bài - đề tài, nữa là...
 Chả thế mà bây giờ, người ta chả muốn đọc báo và chả tin vào báo, cho dù đó là những tờ, chính danh "Báo chí Cách mạng Việt Nam".

Đăng lại Bài viết của tác giả Hiệu Minh, để lý giải nguyên nhân: Tại sao người đọc thích tìm đến Blog hơn là báo, cho dù người viết Blog chẳng có lương viết, chẳng làm nghề "định hướng tư tưởng - tuyên truyền chủ trương", như những người viết suốt ngày ăn cải - viết cải và sống bằng lá cải, bây giờ...

Cũng mong cô giáo Thủy sớm quay trở lại công việc. Ai chả có lỗi lầm, quan trọng là biết để không mắc phải và hơn nữa: Đừng bận tâm gì đến mấy thứ báo vớ vẩn. Lá cải đấy, đầy ngoài chợ. 
----------------------------------------------------------------------------------------------
                                                   NỀN GIÁO DỤC... HÓC XƯƠNG GÀ

Nhớ hồi cu Luck đi học vỡ lòng bên Mỹ, cô giáo ra bài, hãy vẽ cầu vồng. Ở thành phố biết cái cầu tròn méo như thế nào, bố ấy vẽ luôn hai trụ, một vạch nối ở giữa và đề “Cầu Vồng”. Cô vẫn chấm điểm “good – 8”.

Nghĩ là giáo dục Mỹ bị “hóc xương gà”, lão bố lầm bầm, tưởng giỏi và hiện đại, hóa ra cũng…dốt.

Tai nạn nghề nghiệp

Mấy ngày nay, báo chí rộn lên về cô giáo Hà Thị Thu Thủy của trường THPT Lômônôxôp (Từ Liêm, Hà Nội) cho điểm 8 một bài viết của học sinh bình mấy câu ca dao nổi tiếng viết về Hồ Tây (Hà Nội):

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ


Phụ huynh phát hoảng khi thấy con bình “canh gà Thọ Xương” là món “canh gà” của Hà Nội.

Chuyện này không lạ. Thời xưa, tôi cũng từng hiểu “canh gà” là món canh nấu thịt gà vì tiếng Việt rắc rối, đồng âm khác nghĩa. Đi học đói khát, nghe canh gà tiết vịt là chảy nước dãi. Hề Sác Lô đi tìm vàng, đói quá, nhìn ông bạn hóa con gà tây thì sao.

Chuyện quá nhỏ mà phụ huynh kiện, báo chí đánh hôi, bạn đọc chế giễu, dù cô Thủy đã giải trình “Có một số học sinh hiểu sai “canh gà Thọ Xương” là món canh của Hà Nội, tôi đã trừ điểm… Tôi đã trực tiếp nhắc các em trên lớp về sửa lại lỗi sai này”.

Dư luận vẫn không tha, cho rằng cô dốt nát, không đủ tư cách đứng trên giảng đường.

Kết quả, giáo sư tâm hồn đi bệnh viện khám tâm lý, đâm đơn nghỉ việc sau áp lực nặng nề tứ phía. Về quê, tắt điện thoại di động và hiện không biết ở nơi nào. Chắc là nàng khóc hết nước mắt.

Các em học sinh ngơ ngác, nhớ cô, lập Facebook, lên internet, kêu tha thiết “cô hãy về với chúng em”.

Ai từng làm giáo viên sẽ hiểu, làm nghề này không đơn giản.

Một lớp 50 học sinh, nộp 50 bài văn, mỗi bài vài trang, nhân lên khoảng 200 trang, bằng một cuốn sách gồm 50 truyện ngắn mà phải đọc trong vài tiếng,  nhận xét, cho điểm. Các truyện cùng nội dung, đầy lỗi chính tả và ngữ pháp, câu  lủng củng, chữ tát đánh chữ tộ,  viết như gà bới.

Chấm 10 bài đầu còn đọc kỹ, duyệt lỗi, chi li từng câu chữ. 10 bài tiếp là có vấn đề vì mắt hoa và môi trường “lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem”. 30 bài còn lại coi như tháo khoán. Bỏ qua lỗi “canh gà” xảy ra như cơm bữa.

Hồ Tây nay có như xưa?

Chuyện nhầm lẫn này còn có nguyên nhân khác. Học đi đôi với hành. Liệu học sinh của ta có được đi thực tế để so với những gì viết trong văn thơ?

Lên hồ Tây bây giờ, thấy cành trúc la đà chỗ nào, có nghe gà gáy sang canh, chày Yên Thái giã giấy hay mặt gương Tây Hồ mịt mù khói tỏa mộng mơ?

Hay là thấy nhà cửa nhấp nhô, cái cao, cái thấp, thò ra thụt vào, nửa tây nửa ta, nửa Á, nửa Âu, pha chút kiến trúc đạo Hồi, đôi khi thêm củ hành nước Nga trên nóc.

Hồ thối hoăng, cá chết đầy, nước đục ngầu. Những kẻ câu trộm cá cởi trần trùng trục tha hồ làm mưa làm gió. Có dám chắc là mặt gương Tây Hồ trong thi ca.

Làng Yên Thái đâu còn ai giã giấy mà nghe được tiếng chày. Đất cát bán hết đất rồi, dân có tiền  lao vào cờ bạc, rượu chè, nghiện hút đầy, sáng ra quán nước, hút thuốc lào vặt, chiều đợi lô đề.

Có người vẫn làm giấy, nhưng là thu giấy vụn từ mọi nguồn, kể cả giấy vệ sinh đã qua sử dụng, mang về nghiền ra, rồi làm thành giấy lau miệng. Loại giấy ấy không cần chầy giã.

Làng quanh Hồ Tây đã bị đô thị hóa, nham nhở như Thị Nở, làm gì còn chỗ nuôi gà, để đêm đến nghe được tiếng gà gáy mà gọi là “canh gà”. Thay vào đó là nhà hàng từ hải sản đến thú hoang, gà đồi Vĩnh Phú, gà chân chì hay gà ri thả rông.

Thế hệ ngày nay lên phía Hồ Tây liệu có tưởng tượng ra nơi mà cố thi nhân đi qua cách đây cả thế kỷ và viết nên những áng thơ để lại cho muôn đời.

Với các em, quanh Hồ Tây là nơi hết giờ học có thể chia nhau đĩa ốc luộc, quả ổi, cánh gà nướng, chân gà luộc, lê la nhìn những kẻ bắt cá trộm văng tục chửi thề.

Trong bối cảnh như thế, tại sao người lớn chúng ta cứ bắt các em hiểu canh gà Thọ Xương là gà gáy sang canh cách đây hàng 100 năm.

Đó là vết mòn trong giáo dục, trong gia đình, đầu óc cố hữu và bảo thủ, không chịu nhìn vào thực tế mà dạy dỗ các em. Một nền giáo dục theo khuôn mẫu, văn mẫu, toán mẫu, người mẫu, chỉ tội ra đời là hết cả mẫu mực.

Mải đi theo lối mòn nên học sinh viết khác đi chút là không thể chấp nhận được. Một học sinh phản hồi về Tấm Cám, là Tấm thật ra rất độc ác, giết cả em và gì ghẻ rồi làm mắm ăn, hay em khác lên án tại sao người mẹ – chị Dậu lại bán con. Cả xã hội lên án ầm ầm và nghi ngờ thế hệ tương lai.

Để các em hiểu “canh gà Thọ Xương” là món canh nấu thịt gà thì chẳng chết ai, vì nó thực tế với Hồ Tây bây giờ, vì cái tiếng Việt nước mình nó thế.

Hãy để không gian cho các em tự do sáng tạo, quan sát Hồ Tây và chiêm nghiệm với thơ ca theo cách hiểu của tuổi thơ.

Vĩ thanh

Kết thúc entry, tôi xin kể tiếp về cuộc gặp với cô giáo vỡ lòng của cu Luck. Tôi băn khoăn tại sao cho điểm good (tốt) về cái cầu vồng mà không phải…cầu vồng.

Cô giáo cười, anh nên để trẻ vẽ theo những gì mà chúng cảm nhận. Tại sao cầu vồng phải có bẩy sắc, có lúc chỉ thấy vài mầu thì sao. Mầm mống của sáng tạo và thiên tài được phát huy khi bản ngã và tự do cá nhân được tôn trọng.

Một lần đi câu cá ở Chesapeak Bay, trời mưa chiều, cả nhà reo lên khi thấy cầu vồng. Từ đó cu Luck biết vẽ cái cầu đa sắc mầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.

Lúc ấy tôi mới hiểu, chính lão bố mới cổ hủ, được giáo dục trong môi trường “không thể chấp nhận cầu vồng không có mầu”, “canh gà nhất định phải là gà gáy” mà không thể là món xúp gà mà bọn trẻ yêu thích.

So sánh giáo dục Mỹ và nước mình không biết anh nào đang “hóc xương gà”.

HM. 13-10-2012

PS. Xin chúc cô giáo Thu Thủy bình an và mong cô trở lại trường tiếp tục giảng dạy môn văn mà cô yêu quí.  Trong hoạn nạn, đám học trò lập facebook gọi cô giáo trở về, các em xứng đáng là chủ tương lai cho đất nước này. Chúng không lập blog trolambao.com hạ bệ cô là may lắm rồi

"BÌM BỊP KÊU NƯỚC LỚN ANH ƠI!"...

Đàm Hà Phú - “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi,
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”...

1. Vợ tôi cũng hay ru con bằng câu ca dao này.

Má vợ tôi ngày xưa nuôi tám đứa con dại cũng bằng cách chèo chống bán buôn nhỏ.

Đêm thì mua trái cây trong Phong Điền rồi chèo ra Cần Thơ bán cho kịp chợ mai Ninh Kiều.

Ngày thì mua hàng tạp hóa từ Cần Thơ chèo vô Phong Điền bán đặng kịp chợ chiều, chủ yếu lấy công chèo chống làm lời.

Xưa chưa có vỏ lãi, chưa có máy đuôi tôm, chèo tay đẩy một ghe trái cây nặng, gặp lúc ngược nước hay đêm trời trở gió thì người khỏe như Lý Đức còn chưa chắc kham nổi, vậy mà má vợ tôi chèo ngon lành, chèo tối ngày sáng đêm luôn.

Vậy đó, cho nên mới nói “buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê…”

Có bữa má chèo ghe trái cây có vợ tôi, lúc đó chừng mấy tuổi, cùng một người em ngồi trên, giữa đêm nước lớn, ngang ngã bảy Phụng Hiệp gặp con nước xoáy, lật ghe.

Vợ tôi chìm nghỉm, trôi mất, may mà má bơi theo cứu được, cứu luôn cả người em.

Mất ghe, cụt vốn từ đó.
2.
Hôm rồi nằm nói chuyện với mẹ, mẹ nói ngày xưa bán vé số mà gặp ai mua nguyên cặp là mừng lắm, mang ơn người ta lắm.

Mẹ bán vé số năm năm, chủ yếu bán buổi trưa lúc nghỉ trưa hoặc bán từ chiều tới tối, thời gian còn lại mẹ làm ở bệnh viện, giữ một kho thuốc lớn của bệnh viện, toàn thuốc quí hiếm.

Tôi đi học một buổi còn một buổi bán vé số thay mẹ.

Cái tủ thuốc lá nhỏ bằng gỗ, có hai cánh mở và một ngăn kéo phía dưới để dựng tiền, phía trên là cái khay, cũng bằng gỗ, có đóng đinh và căng dây thun để giữ những xấp vé số được cố tình xòe ra cho đẹp.

Chủ yếu là lời từ vé số, còn thuốc lá thì hai cha con tôi hút dữ quá, nên bán đã chẳng lời lại còn lỗ nặng.

Trời nắng, khó bán, vì ai người ta cũng ngại nắng, muốn đi cho lẹ.

Trời mưa, rất khó bán, vì mưa thì phải mặc áo mưa cánh dơi rồi trùm kín cả tủ thuốc lẫn vé số, ngồi thu lu một đống, ai biết mình bán gì mà mua.

Hai mẹ con tôi lại không giỏi chào mời, chỗ ngồi lại xa các tủ vé số khác, nên càng ế ẩm.

Chủ yếu bán cho người quen, mấy chú trong khu tập thể ghé mua giùm điều thuốc, mấy bác sĩ trong bệnh viện có dịp đi qua cũng ghé làm vài tờ vé số, có người mua xong mấy tờ vé số thì tặng luôn cho tôi, coi như là cho quà.

3.
Bạn có thấy mấy tấm hình tôi chụp trong Saigon Streetlife 01 chủ yếu là những người sống bằng đường phố: Giữ xe, Xe ôm, Hoa, Bánh Mì, Phế Liệu, Vé Số, Tạp Hóa, Trái Cây…

Ai cũng biết cái nắng Sài Gòn dữ dội thế nào, ai cũng biết mưa Sài Gòn ào ào bất chợt thế nào, ai cũng biết ở Sài Gòn, Công an khó khăn, Trật tự đô thị rất nghiêm…cho nên ai cũng biết những người buôn bán này vất vả sinh nhai thế nào.

4.
Tôi cũng là người làm kinh doanh, đôi khi mở miệng nói với khách hàng câu: “Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê”, thì bị mỉa mai, bị cho rằng nói xạo, nói quá.

Tôi có nói xạo, nói quá không thì tôi biết, nhưng tôi thề với bạn rằng câu ca dao trên sẽ đúng với bất cứ một người làm ăn mưu sinh lương thiện nào:

“Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê"...
---------------------------------------
* Hình ảnh minh họa trong bài viết, đăng trên corbis ghi lại hình ảnh cuộc sống đô thị, người dân Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, sau ngày giải phóng 30/4/1975 và thời bao cấp, từ 1975 đến trước năm 1990.

10 tháng 10, 2012

HÀ NỘI LUÔN GẦN HƠN BẠN NGHĨ

Đàm Hà Phú - Tôi đến Hà Nội vài lần, lần đầu là năm tôi 18 tuổi.

Ngồi 2 ngày liền trên một cái thùng đạn cũ đằng sau một chiếc xe tải chở hàng khởi hành từ Nha Trang, tôi đi qua nhiều nơi, thành phố, thị trấn, làng mạc, đồng quê…trước khi đến với Hà Nội.

Tôi cứ ngỡ mình sẽ cảm thấy lạ lẫm, bàng hoàng một cảm xúc đặc biệt khi đặt chân đến thủ đô, nhưng không, không có một chút gì, thậm chí mọi thứ còn ánh lên một cảm giác thân thuộc, tôi như một đứa trẻ trở về nhà sau một chuyến nghỉ hè.

Khi rời Hà Nội, cũng lắc lư trên cái thùng đạn sau mui xe ấy, tôi đã cảm thấy mùi của một cuộc chia ly, tôi bất giác khẽ hát: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu, bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều"..

2.

Những kẻ làm thơ và mê giang hồ như tôi có lẽ đã tiến hóa từ một loài bò sát nào đó, bằng chứng là tôi vô cùng thích nước, thích tụ tập ở những chỗ có nước.
 Hà Nội có thật nhiều nước. Sông Hồng lộng gió, Hồ Tây mênh mông, Hồ Gươm trầm mặc… chỗ nào cũng có sức hút mãnh liệt đối với tôi, như một bản năng.

Cho dù bận rộn với những hành trình, cho dù dưới cái rét cắt da hay trong cái nóng căng người, mỗi khi đến Hà Nội, tôi luôn dành thời gian cho nước, một ít cho Sông Hồng, một ít cho Hồ Tây, và những rặng liễu ở Hồ Gươm đã bắt đầu nhớ tôi.

Mọi thứ ở Hà Nội có thể đã khác, đã thay đổi nhiều (kể cả 36 phố phường), nhưng nước ở Hà Nội thì không hề, tôi luôn có cảm giác như nước ở Hồ Gươm đã xanh như thế từ khi chưa có con người và sẽ còn xanh như thế đến khi không còn con người.

3.
Tôi thích đọc “Thương Nhớ Mười Hai” của Vũ Bằng, tất nhiên là vì tôi ham ăn, nhưng còn một lý do khác, mơ hồ hơn, tôi có luôn cảm tưởng như mình vừa đi ra từ những dòng chữ ấy, như nó đang kể một câu chuyện về tôi hay chính xác hơn tôi đang sống trong những câu chuyện ấy, cũng lững thững đi trên con phố mùa đông, tìm ăn món ăn mình ưa thích, lắng lòng nhìn mặt hồ…

Dạo này ít ai nhắc đến Vũ Bằng, kể cả trong dịp một ngàn năm. Người Hà Nội mà không nhớ Vũ Bằng thì thật là dở vì chính những tâm hồn tài hoa như ông đã làm cho nhiều người, rất nhiều người, đem lòng yêu Hà Nội khi họ chưa hề biết đến Hà Nội.

4.
Cũng như mọi chốn khác, Hà Nội luôn có vấn đế của nó, một hoặc nhiều vấn đề, đơn giản hoặc đang ở mức báo động, dù sao, tôi cũng không muốn những vấn đề đó làm ảnh hướng đến cảm xúc khi tôi viết những dòng này, cho nên, chừng nào nước ở Hồ Gươm không còn xanh và nước ngoài Sông Hồng không còn đỏ, chừng nào con chim sẻ ngô không còn bay trên những bãi bồi, những triền đê lộng gió, chừng nào rượu Nếp Cái Hoa Vàng uống vào không say, thì tôi mới không còn yêu Hà Nội.

5.
Thực ra, Hà Nội luôn gần hơn bạn nghĩ
-------------------------------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại.

"HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TP. HẢI PHÒNG"?..

Lần đầu tiên mới biết có cái "Tuần lễ Hưởng ứng học tập suốt đời" này, ở ngay quê mình (TP. Hải Phòng). Chiều, chạy qua đường Hoàng Diệu, gần UBNDTP, thấy khối người ngoái đầu nhìn và ngã. Mình phi xuống chụp hình, cũng suýt ngã vật. Giời ạ!. Có bao thứ để làm, để lo và để... tiêu tiền (của dân). Sao lại cứ bày ra những việc thế này, để làm khổ dân nhỉ?. Với mình, học gì thì học, chứ học TP. Hải Phòng suốt đời, thì quá khó, vì chả biết học cái gì?. Đúng là... hết việc!..
Rất hoành tráng và đập thẳng vào mắt
Hết nói...

9 tháng 10, 2012

KỶ LUẬT NGUYÊN CHỦ TỊCH UBND TỈNH ĐẮKLẮK: "HÌNH LUẬT CHẲNG BAO GIỜ PHẠM ĐƯỢC TỚI QUAN QUYỀN"?..

Đào Tuấn - Phát hiện ra được một “con sâu” là việc khó, rất khó. Nhưng ngay cả khi đã phát hiện được thì việc xử lý thế nào để người dân tin tưởng vào sự nghiêm minh, có lẽ, cũng chẳng dễ dàng

Nghị quyết TƯ 3 (khóa VIII) năm 1996 của Đảng đã cảnh báo: “Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng”.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) năm 2012 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” thì chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp… sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…

Giữa hai đánh giá này, là đường đồ thị đi lên giữa “Một bộ phận” và “Một bộ phận không nhỏ”.

Nhưng trong suốt 16 năm qua, “Một bộ phận” đó là ai, đơn vị nào, ngành nào, cấp nào?. Thì đến giờ vẫn chưa ai đưa ra câu trả lời.

Có lẽ, đó cũng chính là lý do vì sao “một bộ phận” sau 16 năm, giờ đã thành “một bộ phận không nhỏ”.

Hôm qua, 5 tháng sau khi bị kỷ luật Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk, ông Lữ Ngọc Cư đã được thuyên chuyển sang để “mang ghế” sang ngồi tại Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.

Khuyết điểm, sai phạm của vị quan đầu tỉnh này liên quan đến những dự án trồng rừng, đến việc nâng cấp chỉnh trang đô thị, đến một số nguồn tiền tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước, rồi cả việc bổ nhiệm cán bộ...

Đặc biệt là việc “đứng tên vay ngân hàng với số tiền lớn…để vợ mua đi bán lại nhiều nhà đất, không báo cáo đầy đủ việc làm trên của vợ với tổ chức Đảng, vi phạm Quy định về những điều Đảng viên không được làm”.

Những khuyết điểm của ông Cư, so với đánh giá của NQ 4 “chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”, có lẽ, cũng chẳng còn thiếu thứ gì.

Đây cũng là những khuyết điểm, vi phạm được Ủy ban Kiểm tra TƯ đánh giá là “Nghiêm trọng, gây thiệt hại về kinh tế và gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và uy tín của cá nhân”.

Nguyên Phó Chủ nhiệm UBKT Vũ Quốc Hùng bình luận về những khuyết điểm của vị quan đầu tỉnh Lữ Ngọc Cư như sau: “Đó là những sự vụ lợi, mà thực ra những điều này, thì ngay một học sinh phổ thông cũng nhận biết được đó là việc xấu”.

Nhưng ông Cư có phải là một trong “bộ phận không nhỏ”?.

Và khi đã phát hiện sai phạm thì liệu điều chuyển “một trong bộ phận không nhỏ” từ cơ quan này sang cơ quan khác có phải là hình thức “xử lý”?.

Câu trả lời có lẽ là nên dành cho Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang.

Tháng 5 năm ngoái, khi tiếp xúc cử tri Quận 1 - TP.HCM, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang khẳng định với cử tri sẽ rà soát, để thay đổi, tất cả các khâu, thể chế, tổ chức , con người nào chưa đáp ứng được mục tiêu đẩy lùi tham nhũng, lãng phí: “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là “chết” cái đất nước này!”.

Phát hiện ra được một “con sâu” là việc khó, rất khó. Nhưng ngay cả khi đã phát hiện được thì việc xử lý thế nào để người dân tin tưởng vào sự nghiêm minh, có lẽ, cũng chẳng dễ dàng.

Bởi việc thuyên chuyển đối với những cá nhân đã sai phạm rành rành và nghiêm trọng đến như vậy, có khác gì bỏ con sâu từ cái cây này sang cái cây khác.

Thời phong kiến có câu “Hình bất thượng đại phu”, tức hình luật chẳng bao giờ phạm được tới quan quyền.

Không lẽ câu đó đúng cả ngay trong một xã hội vẫn vỗ ngực cho mình là “thượng tôn pháp luật”?..
------------------------------------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại, không phải nguyên bản của tác giả.
* Hình ảnh chỉ có tính minh họa, không liên quan đến nội dung bài viết.

8 tháng 10, 2012

LỜI CẢM ƠN TỪ NƠI "PHÊN DẬU CAO BẰNG"...

Vậy là chuyến đi thiện nguyện, trao hàng cho hơn 900 học sinh (Mầm non, Tiểu học, THCS) của xã biên giới Xuân Trường (Bảo Lạc, Cao Bằng) và gần 100 giáo viên, cùng Đồn Biên phòng Xuân Trường đã kết thúc, để chuẩn bị chuyến hàng thứ 2, trong Hành trình dài hơi mang tên "Áo ấm biên cương", những ngày đông lạnh giá.

Cụ thể như sau:

PHẦN QUÀ CHO TỪNG HỌC SINH

- 167 học sinh (hs) THCS, mỗi hs nhận 1 túi quà, trong đó có: 1 cặp sách, 10 cuốn vở, 1 khăn quàng đỏ, 5 bút viết, 1 hộp kem đánh răng, 1 túi bánh kẹo.
- 424 học sinh (hs) Tiểu học, mỗi hs nhận 1 túi quà, trong đó có các món quà như hs THCS
- 249 hs Mầm non, mỗi hs nhận 1 áo khoác chống rét, 1 mũ len, 1 túi bánh kẹo.

HÀNG HÓA CHUNG CHO 12  ĐIỂM TRƯỜNG (tùy theo số lượng học sinh, để điều chỉnh số lượng; Các điểm trường gồm: Trường chính Xuân Trường, Cao Bắc, Mù Chảng, Lũng Mật, Lũng Pù, Xà Phìn, Thắm Tôm, Lũng Rạc, Phia Phoong, Tả Sáy, Phìn Sảng, Lũng Pèo).
 - 41 chăn bông (đã có vỏ), 10 vỏ chăn ngoài, 30 chiếu.
- 60 thùng mì tôm
- 100 hộp sữa đặc có đường
- 4 thùng thuốc ngậm chống ho, C ngậm
- 250 bát, 100 đĩa, 20 chậu sắt tráng men
- 2.000 bút viết các loại
- 100 đôi tất, 200 khăn mặt
- 20 kg cá cơm khô, dầu ăn, nước mắm, muối tinh, bột canh
- Đồ chơi cho các cháu Mầm non
- 2.000 đầu Sách truyện mới và cũ
- 100 kg gạo
- 100 bánh Trung Thu
- 2 radio - catsset, 1 Âm ly di động
- 40 bộ sách Giáo khoa THCS mới
- 7 thùng sách truyện cũ do học sinh THCS Hợp Giang (Thị xã Cao Bằng) quyên góp, ủng hộ
- Đèn pin, quần áo đi mưa

HÀNG HÓA TẶNG CBCS ĐỒN BIÊN PHÒNG XUÂN TRƯỜNG (ĐỒN BP 147, BĐBP CAO BẰNG):

- 1 màn hình tivi LCD Samsung 43inch
- 1 Âm ly
- 1 máy in Canon
- 1 đầu karaoke vi tính.
- 100 cặp cán bộ (tặng cho CBCS trong Đồn, Giáo viên cắm bản và cán bộ xã Xuân Trường).

Tổng giá trị hàng hóa, ước tính 230.000.000 VND.

Xin chân thành cảm ơn các Cô bác/ Anh chị/ Công ty - Doanh nghiệp đã ủng hộ Chương trình và chung tay giúp đỡ Giáo viên - học sinh - bộ đội tại xã biên giới Xuân Trường.

Các nội dung về chuyến đi, đã được thể hiện trong các bài viết sau:

- Thăm thẳm Lũng Màn Sương (đọc ở đây)
- Thồ hàng lên biên cương (đọc ở đây)
- Ấm những mùa trăng (đọc ở đây)
- Đi dọc biên cương (đọc ở đây)

 Xin được công bố các khoản Thu - chi:

Phần thu bằng tiền
Phần thu bằng hiện vật 


Như vậy, số tiền quyết toán là:
44.550.000 - 41.105.000 = 3.445.000 VND

Số tiền thừa còn lại (3.445.000 VND), xin phép dược chuyển tiếp sang Chuyến hàng sau, dành để mua áo ấm tặng cho trẻ em biên giới (Cao Bằng hoặc Hà Giang) trong tháng 11/2012 của Hành trình "Áo ấm biên cương".

Rất mong các Cô bác/ anh chị/ Quý cơ quan - Doanh nghiệp đã tham gia ủng hộ, kiểm tra lại giúp chúng tôi số liệu góp lạt của mình, để chúng tôi cập nhật những khoản thiếu (nếu có).

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN MỌI NGƯỜI, TỪ BIÊN GIỚI CAO BẰNG!..


6 tháng 10, 2012

CNXH VÀ CNTB- CẢM NHẬN BAN ĐẦU CỦA MỘT NGƯỜI VIỆT

Hiệu Minh - Bài viết của tác giả vhlinhdesign. HM Blog xin ghép hai đoạn comment của bạn đọc có tên là vhlinhdesign viết về cảm nhận CNXH ở Liên Xô và CNTB tại Pháp. Thú thật, đọc lên tôi thấy đúng như những gì mình thấy nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện viết ra như vhlinhdesign. Đầu đề và subtitle do HM Blog đặt.

Cảm ơn sự đóng góp của VH Linh.

Choáng 1: Từ địa ngục bước lên thiên đường XHCN Liên Xô

Vào một ngày cuối thu năm 1982, chúng tôi lần đầu đặt chân lên đất Nga. Nắng vàng rực rỡ, vườn táo xanh um lúc lỉu những quả là quả. Chúng tôi đi qua thèm lắm, mắt trước mắt sau chỉ muốn nhảy lên với mấy trái về nhai cho đỡ cơn thèm chế ngự não bộ của những người lần đầu tiên nhận ra vẻ đẹp của Thiên đường có thể hiện diện ngay trên mặt đất.

Nhìn cái ly màu trắng bên cạnh bình nước lọc bằng thuỷ tinh cũng màu trắng, ga đệm màu trắng, tất thảy đều màu trắng, chẳng hiểu sao lòng dạ tôi lại bồn chồn.

Lúc đó tôi không hiểu vì sao lại thế. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao hình ảnh mấy cậu bạn cùng đoàn chạy ngay ra bến Metro gần nhất chỉ để trèo lên trèo xuống cầu thang điện, lại ám ảnh tôi lâu đến thế, có lẽ hơn hai mươi mấy năm rồi.

Sau này đi chu du thiên hạ, nhàm chán dần với cảm giác rùng mình, tôi chợt hiểu có lẽ đó là trạng thái sốc của những đôi mắt và bộ não ướt sũng đói nghèo và bom đạn.

Việt Nam lúc đó khổ quá, chúng tôi lại là dân nội trú, càng ngấm cái khổ hơn. Bữa cơm chẳng có gì ngoài nồi nước mắm nổi lềnh bềnh vài miếng mỡ, hành xanh vắt vẻo vài cọng, thìa ăn xong không cần rửa vẫn sạch trơn. Nửa cái bánh mỳ phổng phao vì bột nở chỉ bóp nhẹ một cái là lại chui tọt trở lại lòng bàn tay.

Vườn địa đàng lúc lỉu táo xanh, bình nước trong veo, ga trải giường trắng muốt cuối mùa thu năm 1982 là bài học đầu tiên không cần thi cũng đỗ về Thiên đường trên mặt đất của chủ nghĩa xã hội đối với chúng tôi.

Ngày 27 tháng 8 năm 1989, toàn thể sinh viên nước ngoài ở trường tôi được cho đi tham quan đột xuất. Vài ba ngày sau tôi mới biết được rằng những người Tac-ta đang ở gần chúng tôi lắm và sinh viên nước ngoài không nên nhìn thấy những cảnh đó.

Vườn táo xanh trong ký ức tôi biến thành khu chợ ồn ào bán mua với những chiếc cốc lần đầu tiên có dán giá tiền thay vì dòng chữ 5 kopec in sẵn trên đáy cốc như mọi khi.

Bình nước trong veo biến thành những thỏi đường vàng xếp hàng nửa ngày không mua được.

Ga trải giường trắng muốt biến thành những tờ truyền đơn vung vãi trên quảng trường Krasnui Prospect trước mặt tượng Lê-nin.

Thiên đường sụp đổ rồi ư? Thế giới này đi về đâu vậy?

Choáng 2: Từ Cộng sản Nga cào bằng đến Tư bản Pháp sòng phẳng

Những ngày đầu sang Pháp, tôi khốn khổ vì vốn từ vựng giắt lưng chẳng đáng là bao. Một lần, thầy giáo của tôi, vừa đi công tác Việt Nam về, được cả cơ quan tôi nồng nhiệt đón tiếp, trịnh trọng giới thiệu tôi với cả lớp vào đúng thời điểm tôi đang gà gật vì nghe mãi chẳng hiểu gì.

Lê-na, cô gái Nga cao lớn và xinh đẹp, bây giờ là giảng viên trường tôi, có cặp đùi dài nhưng to bằng ba lần vòng eo của Cecile người Pháp, huých tôi và than Trời bằng tiếng Nga:” Boze moi”.

Bản năng Bắc Kỳ chính hiệu cho tôi một nụ cười vừa phải. Cả lớp vỗ tay nồng nhiệt,  Lê-na thu dọn sách vở, bảo tôi ký vào danh sách lớp. Tất tật bằng tiếng Nga. Tôi đần mặt đứng dậy, theo chân thầy để bắt tay mà chẳng hiểu vì cái gì. Thế là hết một giờ học.

Tư bản ơi là tư bản, sao không nhìn vào mắt tôi mà nhận ra nụ cười Tonkin trong đó?

Lớp tôi thỉnh thoảng rủ nhau đi ăn trưa. Những năm đó, học bổng của tôi tính bằng francs, chưa phải euros như bây giờ. Mỗi tháng 4.700 francs nhà ở kèm ăn uống. Đứa nào may mắn kiếm được nhà trong ký túc xá thì đỡ chứ chẳng may chậm chân là khốn khổ.

Tôi tiết kiệm lắm, dành dụm để mua vé về thăm nhà rồi lại sang nên không thường xuyên đi ăn cùng cả nhóm.

Maryline, gái Paris chính hiệu, bốc lửa, tóc vàng, mắt xanh, mỏ đỏ hình như không hiểu đầu tôi đang toan tính những gì nên trưa nào cũng kéo áo tôi xềnh xệch, bắt đi ăn cùng cả nhóm. Đĩa nó sạch trơn, mắt nó nhòm vào đĩa của tôi còn ngồn ngộn thứ ngũ cốc bùi bùi màu tím ngắt giống đậu đen rồi hào hứng tuyên bố chỉ có đứa nào thiểu năng mới không ăn hết món ngon thế này.

Đứng dậy, chia tiền, tôi vẫn trả đủ phần tôi. Vài ngày sau, tôi lại ăn món tráng miệng của nó, nó lại trả đủ phần nó. Khi hết tiền, tôi tìm cớ thoái thác để ra về trước cả nhóm.

Nhớ lại những mùa thu trên đất Nga, bạn bè thân thiết đi ăn cùng nhau chưa bao giờ có đứa nào thò thìa dĩa sang đĩa của tôi, dù nó còn ngồn ngộn. Ăn xong, thường chúng tôi tranh nhau trả tiền hoặc luân phiên đứa nọ bao đứa kia theo đúng tinh thần xã hội chủ nghĩa.

Maryline xinh tươi mắt xanh mỏ đỏ tóc vàng quyến rũ của tôi là bài học đầu tiên về sự sòng phẳng mà càng ngày tôi thấy càng hợp lý.

Tôi nhớ đến Liên trong tiểu thuyết “Tuyết rơi”, câu chuyện về Paris ngày nắng nóng 11 tháng 8 năm 2003, cố thử hình dung ra khuôn mắt đầy mụn, đôi mắt gườm gườm chẳng rõ lý do ngay với chính bản thân mình, những cái cấu chí chọc thủng da thịt các cụ già trong nhà dưỡng lão đầy hằn học và ác nghiệt của cô mà rùng mình.

Sao cái lớp học nhân đạo của Liên trên đất Pháp có hình hài kỳ dị đến thế? Nó có nhiều không trên đất Paris, mà tôi, một sinh viên đã từng mò mẫm ở những vùng như 93100 lại không rõ?

Hay tôi không bao giờ có cơ hội nhìn thấy những người Việt Nam như Liên, ngay cả trong những ngóc ngách khốn cùng của Paris như thế?

Bao nhiêu cô gái Việt Nam phải hy sinh để một Liên đau đớn và quái đản ép đến ngạt thở từng trang sách màu hồng trong hơi lạnh của “Tuyết rơi”, nhẹ như lông hồng mà lại làm trĩu nặng con tim người đọc một cách vô lý đến thế?..

VHLINH DESIGN

4 tháng 10, 2012

CSGT LÀM XE ÔM, LÁI TAXI

TP - Sau khi trút bỏ trang phục Cảnh sát Giao thông (CSGT), không ít người hành nghề xe ôm, lái taxi hoặc về làm nông để mưu sinh. Đằng sau cái nghề được đánh giá chỉ thích đứng đường và giàu sụ, có những thân phận khó tin...

Cha CSGT, con hy sinh, ở nhà thuê

Chiều về trên một ngã tư đường phố Hà Nội, có một bác xe ôm mặt thể hiện sự nhẫn nại đợi khách. Ở một ngã ba khác, một CSGT đang tả xung hữu đột giữ dòng xe ngược xuôi.

Cả hai đều từng là đồng nghiệp, người đã hưu, người vài tháng nữa cũng đến lượt. Trung tá Nguyễn Hữu Kiên (thuộc Đội CSGT số 5 - Phòng CSGT Hà Nội) có gương mặt đen sạm, khắc khổ, vài năm gần đây khá quen mặt với nhiều người gần khu vực đầu cầu Chương Dương (phía Ngọc Thụy - Long Biên).

Ít ai biết, người CSGT dáng cao, kiên nghị ấy đang gánh chịu những mất mát, đến nỗi như anh nói: “Tôi cố làm cho xong vài tháng nữa để về hưu, rồi đưa vợ về quê Hưng Yên làm ruộng. Ở Hà Nội hiện cũng không còn nhà, phải đi thuê”.

“Tôi có đứa con trai sinh năm 1984 là thiếu úy Nguyễn Trường Quân, công tác tại Đội CSGT số 4 hy sinh đầu năm 2011. Sau khi cháu mất, tôi chán chường vô cùng, phải nỗ lực lắm để đi làm việc”, anh Kiên nói.

Số phận dường như thử thách sự kiên cường của gia đình trung tá Kiên. Những tưởng không gì hạnh phúc hơn: Con trai lớn là đồng nghiệp với bố (con làm ở đầu thành phố, bố cuối thành phố trên những tuyến đường huyết mạch), con gái thi đỗ điểm cao vào Khoa Ngoại ngữ và Pháp luật (Học viện An ninh).

Tương lai, cả nhà làm công an. Thế rồi, trong một lần đi tuần tra trên đường Giải Phóng (Hà Nội), một chiếc xe ô tô khách vi phạm luật giao thông đã đâm vào xe máy tuần tra của thiếu úy Quân làm anh tử vong.

Chuyện không dừng ở đó, “con tôi là người chất phác, trước đó đã bị một cô gái lừa phải cắm cả sổ đỏ của bố mẹ”.
Trung tá Kiên đã phải nhờ bạn bè về tận quê cô bạn gái của con trai và phát hiện nhiều sự thực đau đớn, nhưng mọi sự đã muộn: Tưởng được con dâu tốt, ai ngờ phải bán hết gia sản vì nó.

“Người tài xế đâm chết con tôi, nhưng tôi viết đơn xin bãi nại. Còn đứa con gái lừa lọc kia, tôi đã phải kiên quyết để pháp luật trừng trị và hiện đang thụ án 16 năm tù về tội lừa đảo”, anh Kiên chua chát nói.

Vừa mất nhà xong, lại tới mất con trai, tưởng như cú đấm của số phận đã quật ngã người đàn ông trông sương gió này. Bây giờ, hằng ngày, trung tá Kiên phóng chiếc xe máy cà tàng từ nhà trọ (anh bán nhà xong, thuê ở trọ chính nhà mình) tới nơi làm việc, vợ anh vốn thất nghiệp, nay xin một chân tạp vụ nhì nhằng.

An ủi lớn nhất là cô con gái học giỏi tương lai sẽ nối gót bố trong lực lượng CAND.

Chả ai giống như trung tá Kiên, CSGT thường muốn xin ra ngoại thành Hà Nội làm cho thoáng, nhưng đằng này được tạo điều kiện lại từ chối. Đã thế lại xin về chốt trực tại điểm khá vất vả vào giờ cao điểm ngay đầu cầu Chương Dương với lưu lượng phương tiện qua lại hằng ngày lớn.

Ngày CSGT, tối xe ôm chuyên nghiệp

Mới về hưu năm 2008, nhưng trung tá Lê Hồng Hà (nguyên CSGT đội 6-Phòng CSGT Hà Nội) chẳng còn “dấu vết” của một người từng làm CSGT. Ông Hà quê Nghệ An (sinh năm 1957), ra Hà Nội học rồi ở lại lấy vợ sinh 2 cô con gái. Cho đến nay, ông vẫn ở cùng bố mẹ vợ.

Gia cảnh hai bên ngoại nội đều khó khăn, 2 con gái đến tuổi ăn, học nên khi còn công tác, ông Hà (lúc đó mang hàm thiếu tá) ngày đi trực, tối về trút bỏ quân phục chạy xe ôm.

Để trấn an cho bản thân, ông tự nhủ thử làm xe ôm chạy đêm biết đâu khám phá ra các vụ cướp. Thế rồi, ông giấu vợ con lẫn đồng nghiệp ra khu vực cây đa nhà bò (trên đường Lò Đúc - Hà Nội) gia nhập đội quân xe ôm.

Mới đầu vì sĩ diện nên ngại không dám mời khách, sau dần quen, ông còn tuyên truyền luật giao thông đường bộ và phòng tránh tội phạm cho “đồng nghiệp” xe ôm.
Những người cùng cảnh cứ mắt tròn, mắt dẹt không hiểu ông xe ôm này mới vào nghề sao hiểu luật pháp ghê thế.

Nhiều lần đang hành nghề, gặp đồng đội đang tuần tra kiểm soát trên phố, ông Hà nói dối là chở người nhà ra bến xe, ga tàu.

“Lúc đó, còn 1 năm nữa về hưu, nhưng con bé đầu vào đại học, bé thứ hai học cấp 3, tuy lương khoảng 6 triệu đồng/tháng, nhưng nếu trang trải các khoản thì khó lắm”, ông Hà kể.

Thế rồi, vợ con cũng biết vì địa điểm đứng xe ôm cách nhà không xa, nhưng tất cả nhìn bố, chồng mình với ánh mắt trìu mến hơn. Bố mẹ vợ, và mẹ ruột ông Hà (vẫn ở quê Nghệ An) năm nay đều trên 80 tuổi lúc nào cũng dặn con về hưu rồi, chân tay yếu nhớ chạy xe ôm cẩn thận.

Gia đình bé nhỏ của ông Hà tuy ở trong khu tập thể vài chục mét vuông, nhưng luôn đầy ắp tiếng cười. Các con ông giờ đã trưởng thành, có tháng lương đầu tiên đã biết biếu ông bà và bố mẹ.

Bản thân ông Hà là con một, phải sống cảnh mồ côi bố từ lúc vài tuổi (bố là liệt sỹ ngành công an) nên rất quý trọng cuộc sống gia đình.

Giờ về hưu vài năm, ông Hà đã chuyển vị trí hành nghề sang chỗ khác trên đường Lò Đúc. Cuộc sống tuy không còn chật vật như xưa, nhưng lỡ quen với cách mưu sinh này, giờ làm cho vui là chính.

(Còn nữa)

Trường hợp của Trung tá Nguyễn Hữu Kiên khi được hỏi, hầu như Phòng CSGT Hà Nội đều biết.

Nhiều CSGT vẫn chưa quên cảnh Trung tá cha đẫm nước mắt chít khăn tang tiễn biệt thiếu úy con.

Đội trưởng CSGT số 6 Nguyễn Ngọc Mẽ vẫn nhớ như in hình ảnh Thiếu tá Lê Hồng Hà (về hưu mới lên Trung tá) hiền lành, lam lũ luôn tận tụy với công việc cho tới khi nghỉ hưu.

ĐI DỌC BIÊN CƯƠNG

Mai Thanh Hải - Đi dọc biên cương, có lẽ là điều xa lạ với nhiều người. 

Phần vì khu vực biên giới, có muốn đặt chân đến cũng khó, bởi quy định bao năm nay vẫn cứng nhắc phần giữ gìn An ninh Quốc gia.

Nhưng nhiều nhất vẫn là do đây là nơi xa xôi, hẻo lánh, khó khăn và cực kỳ thiếu thốn, từ miếng ăn, cái mặc cho đến những tiện nghi sinh hoạt tối thiểu nhất, nên nhiều người miền xuôi - thành thị cứ lẳng lặng tránh xa.

Hành trình của Đoàn "Góp lạt buộc phên dậu Cao Bằng" chúng mình, lăn dài trên nẻo đường biên giới Cao Bằng, giáp với đất Trung Quốc, từ Bảo Lâm, Bảo Lạc, cho đến Hà Quảng, Nguyên Bình, đến đâu cũng gặp những vất vả, khó khăn nhưng cũng hoang dại, nên thơ và thêm yêu biên cương nghèo khó, đến vô cùng...

1/ Mốc 612 thuộc quyền quản lý của Đồn Biên phòng 147 (Đồn Biên phòng Xuân Trường), nằm ở thôn Lũng Mật, xã Xuân Trường, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.

Đi từ Đồn 147 đến điểm trường Lũng Mật đã khó, nhưng cũng đỡ hơn vì thời gian chủ yếu, được ngồi trên xe máy. Từ Lũng Mật đến mốc 162 vất vả hơn gấp vài chục lần, bởi quãng đường toàn đi bộ, trên núi đá lởm chởm đá - trong thũng lũng cũng lởm khởm đá gần chục km.

Anh em Biên phòng, vốn quen đi rừng là thế, vớ phải hôm đưa cả Đoàn lên mốc, cứ tý lại nắng, tý lại râm, nên cũng phờ hết cả râu, lưng áo ướt đẫm vì mệt.

Leo mãi, trượt chân mãi. Tưởng như không thể đi nổi nữa, bất thần cột mốc hiện ra ngay cạnh đường mòn, sau vách đá, sau tiếng hô của nhóm đi đầu: "Đây rồi! Đến rồi!", khiến mấy thành viên nữ, sụm người bởi chưa bao giờ leo quãng đường núi xa - vất vả như thế, cũng phải thẳng chân, dấn lên chạy trước.

Lần đầu tiên trong đời, rất nhiều thành viên mới được đứng cạnh cột mốc - sờ vào mốc và... chụp ảnh lưu niệm bên cột mốc biên giới.

Cũng lần đầu tiên bên cột mốc 612, có 1 buổi giới thiệu - tuyên truyền về chủ quyền, an ninh biên giới xúc động và nghiêm trang đến vậy.

Không chỉ những người lính Biên phòng được nghe lại những điều về Hiệp định phân giới cắm mốc, mà cả những người dưới xuôi - thành thị, cũng hiểu được những vất vả, gian lao khi cột mốc bằng đá nguyên khối hơn 10 năm trước, được chuyển hàng tuần liền, từ đường đất Lũng Mật, trên vai con người, trên lưng ngựa, vượt núi đá, dưới sự bảo vệ của những họng súng AK và mắt lính Biên phòng cảnh giác, để đứng vững trên triền núi đá Lũng Màn Sương...

Và lễ chào cột mốc, cũng rất tự nhiên từ những điều thiêng liêng nhưng giản dị, khi tất cả nhìn thẳng vào dòng chữ "Việt Nam" màu đỏ cờ, trên vách mốc xanh đá thời gian để thấm thía khái niệm "Vì chủ quyền an ninh biên giới quốc gia" và thêm yêu biên cương, rất kiên trung nhưng cũng rất đỗi nhọc nhằn...

2/ Giống như các tỉnh biên giới phía Bắc, đi đến đâu từ xóm thôn cho đến huyện xã, ven đường hay hốc núi góc rừng, trung tâm chợ, xóm dân cư...trong đất Cao Bằng, cũng gặp những nhà bia mái vòm cong, cũ kỹ và đơn côi, ghi tên những người đã ngã xuống trong cuộc chiến đánh trả quân Trung Quốc xâm lược ở địa danh ấy, trong những năm quá khứ rất gần ấy.
Không chỉ là Nhà bia ghi tên Liệt sĩ, trong các Nghĩa trang Liệt sĩ (NTLS) của tỉnh, vẫn ngay ngắn xếp hàng theo đội hình từ Trung đội đến Trung đoàn, những người lính nằm xuống khi tuổi mới 18-20, trong những ngày đầu tiên cuống quýt - bất ngờ đánh trả lại quân Trung Quốc và lăn lóc dưới chiến hào, trên điểm chốt dằng dặc cả chục năm, để giữ từng thước đất, bờ suối trong tầm bắn của pháo binh, đạn cối, súng bắn tỉa... từ bên kia biên giới nã sang.

NTLS Mỏ thiếc Tĩnh Túc nằm ngay cạnh Thị trấn Tĩnh Túc (huyện Nguyên Bình). Những năm trước, Tĩnh Túc được coi là "Thủ đô của nền Công nghiệp XHCN", chói lọi cùng Gang thép Thái Nguyên, làm thành "mô hình hiện đại hóa - công nghiệp hóa" chói sáng - tin tưởng trong tim mỗi đồng bào miền Nam với ước mơ "thống nhất đất nước, sẽ sống sướng hơn cả... Sài Gòn".

Chả biết có nhẹ dạ, tin theo công tác tuyên truyền không, mà ngay trong ngày đầu bất ngờ tấn công xâm lược Việt Nam tháng 2/1979, Trung Quốc cũng đưa 1 lực lượng lớn bộ binh, có xe tăng yểm trợ, hì hục tiến lên Nguyên Bình hòng đánh chiếm mỏ thiếc Tĩnh Túc.

Dĩ nhiên, mũi tiến công của quân Trung Quốc bị các thứ quân của ta, từ cấp du kích thôn bản cho đến bộ đội huyện tỉnh đánh trả quyết liệt (sau khi biết cái lũ mặc quần áo xanh, lẻo nhẻo "Hảo lớ", ngồi trên xe tăng in ngôi sao đỏ trong vòng tròn "Bát Nhất" chạy khắp thị xã, các con đường trong tỉnh... là lính Trung Quốc sang xâm lược, chứ không phải... bộ đội Việt Nam).

Ngay tại cửa ngõ dẫn vào mỏ thiếc Tĩnh Túc, những học sinh mới ra trường - công nhân - cán bộ ngồi bàn giấy... chuyên làm công việc kỹ thuật khai thác mỏ đơn thuần cũng được tập hợp vội vã vào cái thường gọi là đội Tự vệ, nháo nhào huấn luyện, ngơ ngác nhận súng tiểu liên K50 nòng rỗ, súng trường K44 dài như cây sào, lên chốt chiến đấu với quân Trung Quốc xâm lược được trang bị tận răng, thuộc làu địa hình địa vật, chuyên nghề đánh nhau... rồi rất nhiều người trong số họ ngã xuống ở tuổi còn rất trẻ, có khi còn chưa kịp bắn phát súng nào

27 người hiện đang nằm tại NTLS Mỏ thiếc Tĩnh Túc, chỉ là số ít trong số những người đã nằm xuống khi bảo vệ biên giới Cao Bằng, khu mỏ thiếc Tĩnh Túc đang bỏ hoang như Chùa Bà Đanh hiện nay. Hết thời "điểm sáng chói lóa", thị trấn Tĩnh Túc lại như trăm ngàn thị trấn bị bỏ quên dọc đường rừng, khiến NTLS cũng hiu quạnh - hoang vắng theo.

Mấy xe ôtô của Đoàn, dặn nhau tập trung ở bãi cỏ ngang lưng đèo trước NTLS Tĩnh Túc.

Cả nam lẫn nữ, già lẫn trẻ lại hì hục trèo cổng - vượt tường nhảy vào, bởi hình như rất lâu rồi, khóa xích han rỉ không được mở, như khóa cứng không cho ai ra vào.

Gió chợt thổi mạnh, để cỏ dưới chân xào xạc, tưởng như những người nằm dưới mộ đang chộn rộn, kéo nhau ngồi dậy đón khách và cùng hỉ hả cười nói, đón chào: "Lâu lắm rồi mới có người tới thăm!". 

Mây chợt ngãng ra, cho vòm trời xanh ngắt, cháy dìu dịu những đốm lửa trên từng ngôi mộ, bờ cỏ, lư hương tượng đài trong mùi hương trầm ngan ngát, quyện với lá với hoa với núi với rừng, thành ưu tư trầm mạc, trong nỗi niềm về những người mãi trẻ, hóa thân xác mình vào mẩu đất biên cương...

3/ Đường từ Thị xã Cao Bằng lên Pắc Bó, đến đoạn gần mộ Kim Đồng, ngay ngã 3 có cây đa to, từ hồi Bác mới về nước, đột ngột rẽ thành 2 ngả. Tụi mình, trong hành trình lên Cao Bằng, cũng như bao Đoàn khác, phải lên đúng quê hương cách mạng thăm - thắp hương tưởng nhớ ngày xưa.

Đêm trước khi lên Pắc Bó (Hà Quảng), Đại tá Phùng Tuấn - Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng Cao Bằng rất cẩn thận, gọi điện cho Chỉ huy Đồn Biên phòng Sóc Hà cho người chờ đón. Chả thế mà vừa đến cổng Khu di tích Pắc Bó, đã thấy Thiếu tá Trìu, Đồn phó Đồn Biên phòng Sóc Hà và Thiếu úy Sướng, đứng trong lố nhố bà con bán hồng ngâm, sim chín đợi sẵn.

Thời gian thăm hang Cốc Bó, suối Lê Nin rút ngắn cùng với việc thắp hương đền thờ Bác Hồ, thăm mộ anh Kim Đồng, để chuyển sang hướng biên giới Sóc Hà, cho dù đã gần trưa.
Ở Sóc Hà, nói đến cái tên Hà Văn Đồng thì ai cũng biết. Cựu chiến binh Hà Văn Đồng sinh năm 1959, năm 18 tuổi nhập ngũ vào lực lượng Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) Cao Bằng, được cử đi học lớp phiên dịch tiếng Trung trong 2 năm tại Bộ Tư lệnh.

Tròn 20 tuổi, chiến sĩ Hà Văn Đồng trở lại Cao Bằng và được phân công công tác tại Đồn Biên phòng Nậm Quét (nay là Đồn Biên phòng Cô Ba, đóng tại huyện Bảo Lạc), ngay lập tức cầm súng, tham gia chiến đấu đánh trả quân Trung Quốc xâm lược, trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, bùng nổ từ tháng 2/1979.

Ròng rã lên chốt - xuống Đồn và chiến đấu, sinh hoạt trong điều kiện vất vả, khó khăn, thiếu thốn, vài năm sau, chiến sĩ Hà Văn Đồng bị bệnh, phải chuyển về điều trị tại Bệnh xá Biên phòng tỉnh. Mặc dù được chăm sóc đủ cách Đông - Tây Y, nhưng bệnh tình của chiến sĩ Đồng vẫn không thuyên giảm và qua một thời gian, bị chuyển sang liệt nửa người, đơn vị phải giải quyết cho ra quân, chuyển về gia đình.

Về lại gia đình, có những lúc Trung sĩ Hà Văn Động tuyệt vọng. Mà cũng đúng, bởi chỉ ngoài 20 tuổi mà đã phải nằm liệt, tất cả mọi việc đều nhờ vào cha mẹ, từ vệ sinh cá nhân cho đến tắm rửa - ăn uống trong khi không có 1 đồng chế độ và chính xác là bố mẹ lại tiếp tục nuôi anh, như hồi thơ bé.

Ròng rã như vậy cho đến nay, đã gần 60 tuổi đầu nhưng Trung sĩ Hà Văn Đồng vẫn... phụ thuộc bố mẹ (đều trên dưới 90 tuổi) và không vợ không con.

Mỗi ngày, mỗi đêm chỉ 3 người già xao xác trong căn nhà cấp 4 xập xệ, nằm ngay rìa cánh đồng, nhìn ra núi đá biên giới cao ngất, đỏ chót cột mốc biên cương trên đỉnh.

Cũng từ những đêm nằm ngắm cột mốc trên đỉnh núi, Trung sĩ Hà Văn Đồng bừng tỉnh: "Là lính, dẫu chết nhưng còn sống ngày nào, phải sống có ích" và nghĩ ngay đến "thế mạnh" mà không dễ ai cũng có của mình: Dạy tiếng Trung Quốc. Dạy để đồng bào mình đấu tranh ngay trực tiếp với chúng trong giữ gìn - bảo vệ cột mốc. Dạy để đồng bào mình dễ làm ăn, thông thương và dạy để biết rõ chúng, về dài lâu...
Thế là lê lết chống tay, tập luyện đến vài năm để lăn được người, nhổm được dậy, ngồi được dậy, tựa được vào tường, thậm chí nhúc nhắc chống nạng ngồi thẳng lưng đầu giường, trước bàn.

Có tư thế để đọc sách, giảng bài rồi, lại nhờ người thân - bạn bè xin hoặc tìm mua sách tiếng Trung về đọc lại, soạn bài thành Giáo trình "tự biên tự diễn"

Có giáo trình rồi, lại vận động người thân - hàng xóm, vận động lại lũ trẻ con trong xóm, bỏ những việc chơi bời lêu lổng, đến tận nhà "thầy", nằm bò trên giường, khoanh chân dưới đất hoặc bám bậu cửa sổ tròn mồm, xoe mắt phát âm xủng xẻng hoặc uốn mồm, viết chữ vuông tròn chấm phẩy...

Mà lạ!. Lũ trẻ biên giới vậy mà chăm học. Chả có bàn ghế - đèn điện - sách vở (thì đến miếng cơm, manh áo của "Thầy giáo", bao năm qua cũng chỉ trông vào sức tàn của bố mẹ gần trăm tuổi, phất phơ mảnh ruộng, luống khoai, cây ớt, con lợn - con gà... chứ đâu có ai giúp đỡ, chế độ chính sách gì?), mà vẫn cứ đều đặn tuần vài buổi, cả sáng lẫn chiều, từ thắng này cho đến năm khác, thế hệ này đến thế hệ khác...

Đến nay, đã có hàng trăm "học viên" của thầy giáo bại liệt Biên phòng Hà Văn Đồng học hành, trưởng thành ở mọi miền đất nước. Thậm chí có người còn thành đạt, học vị học hàm và giữ chức vụ quan trọng trong tỉnh - huyện.

Nghe chuyện về cựu chiến binh Hà Văn Đồng, cứ day dứt mãi về cái gọi là "Nghị lực sống" và "chế độ chính sách"...

Dẫu biết quy định là quy định và ở trên cái vùng núi đá gian khổ này, tồn tại được qua ngày, đã là tốt lắm rồi, nói gì đến sống... - Thế nhưng vẫn cứ so sánh hình ảnh người lính Biên phòng cường tráng như cây gỗ nghiến trên vùng núi đá Cô Ba thủa nào, nay teo tóp chưa đến 38kg, nằm dán xuống chiếu, nhưng vẫn quờ tay tìm cuốn sách và thều thào đọc mẫu, cho người học trò đứng tuổi, ngồi im phăng phắc đầu giường, trong chiều tà núi Cốc Bó đè nặng mái nhà.

Cũng là lính đấy. Cũng từng mặc màu xanh áo lính đấy.

Thế mà vẫn có không ít kẻ béo tốt phởn phơ, huy hiệu Thương binh cài đầy ngực, sơn to đùng trên xe lăn, in cả vào màu kính đen họ áp trên mắt, trong mỗi buổi chiều gác chân lành lên ghế uống bia hơi và rầm rầm chạy cái xe nửa hơi nửa máy, mà người ta quen gọi "xe Thương binh" đi đòi nợ, dọa người...

Cũng là lính đấy. Cũng mất tất cả vì màu xanh áo lính đấy.

Thế mà vẫn gượng lên mà sống, từ lầm lụi hạt lúa - củ khoai và sống rất có ích, bằng những con chữ truyền lại cho con trẻ mỗi ngày mỗi đêm, không than trách, không đòi hỏi, không kể công, nhẹ nhàng như thể hạt nắng đầu hôm, giọt sương đêm vắng, sợi mây mù đầu buổi, lá trên cây và suối hát rì rào...

Ở trên vùng biên giới xa xôi, có đến rồi mới biết: Từ hòn đá, bờ đất, nhành lá, bông hoa, giọt nước nơi cương vực Quốc gia, đều có sự sống.

Sự sống không chỉ lấp lánh trong màu - mùi - vị, mà còn lắng đọng vào những câu chuyện, tên đất, tên người hết sức giản dị nhưng cũng rất đỗi kính phục.

Và điều này, mình tìm lại được, trong hành trình: Đi dọc biên cương...
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN "GÓP LẠT, BUỘC PHÊN DẬU CAO BẰNG" TẠI MỘT SỐ ĐỊA BÀN BIÊN GIỚI THUỘC TỈNH CAO BẰNG.
Nhà báo Hà Phương (Báo Bảo hiểm xã hội), Lê Nguyễn Thanh Thúy (Báo Sức khỏe và Đời sống), thay mặt Đoàn, tặng số tiền 5.000.000 VND cho Thầy giáo Hà Văn Đồng (nguyên Trung sĩ, Chiến sĩ Đồn Biên phòng Nậm Quét, nay là Đồn Cô Ba đã trực tiếp tham gia chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ biên giới tháng 2/1979, được Trung ương Đoàn tặng Danh hiệu "Tuổi trẻ anh hùng Bảo vệ Tổ quốc", nay bị bệnh tật, sống rất khó khăn tại Sóc Hà, Hà Quảng).
Dâng hương tại Đền thờ Bác Hồ (Khu Di tích Lịch sử Pắc Bó)
Thăm, tham dự Lễ chào cột mốc truyền thống của Bộ đội Biên phòng, tại mốc 612
Dâng hương, viếng NTLS mỏ thiếc Tĩnh Túc (Nguyên Bình, Cao Bằng)
Dâng hương, viếng mộ Anh hùng Liệt sĩ Kim Đồng