19 tháng 5, 2013

XANH MỘT MÀU NAM YẾT


Mai Thanh Hải - Tàu đến Nam Yết lúc đầu chiều, nắng chang chang làm khô cong con tàu toàn những sắt là sắt và hừng hực dầu mỡ, súng ống.

Chỉ có dịu mắt, mềm lòng lại khi đứng trên boong nhìn vào đảo phía xa ngái biển bờ bởi màu xanh rời rợi của cây lá, lan ra tận mép sóng thẳm xanh.

Mình đến Nam Yết mấy lần trước, toàn tành tạch ca nô chuyển tải từ tàu vào đảo, bộ đội đứng chờ cả tiếng đồng hồ, mới được cầm tay người đất liền, bởi ca nô của tàu loay hoay lượn qua bãi san hô, vòng vèo qua những hàng cọc chống đổ bộ nhô lên nhọn hoắt, trải dài ra tận mép xanh.

Mấy năm nay, được cả nước quan tâm nên các đảo đều được tặng xuồng CQ chạy veo veo trên sóng nên mình chả phải chịu tạch tạch, cứ khoác áo phao nhảy xuống xuồng, chạy ào chục phút, đã đặt chân lên đảo, khi níu tay đồng đội Nam Yết thân thương.

Nói về Nam Yết, để mọi người hình dung được, thì thế này:

Đảo nằm ở 10011’ 06” vĩ độ Bắc, 114o 21’ 30” kinh độ Đông, có hình bầu dục, bề ngang nằm theo hướng đông tây và thay đổi hình dáng theo mùa do tác động của sóng gió.

Đây là đảo nổi có diện tích lớn thứ 2 trong quần đảo Trường Sa sau đảo Ba Bình, độ cao của đảo so với mực nước biển chừng 0,8m, chất đất trên đảo tương đối tốt, trải qua quá trình cải tạo nên đảo có nhiều cây cối tốt như mù u, phong ba, bàng vuông.

Qua thời gian và bàn tay cần mẫn, chăm chỉ lao động của cán bộ, chiến sỹ đã khoác cho đảo một màu xanh của cỏ cây bởi các loại như dừa, xoài, đu đủ… và một số giống cây thích nghi với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng nơi đây, trong đó có cây nhàu, một loại cây thuốc quý, được người lính ở đây đặt tên cho nó là cây cà phê dại.

Cách đây hơn 30 năm trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 lịch sử, sau chiến thắng vang dội của ta ở mặt trận Buôn Mê Thuột, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa và một số tỉnh, thành khác.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải Quân, một bộ phận của Hải quân nhân dân Việt Nam đã tiến ra giải phóng quần đảo Trường Sa.

Lúc 10 giờ 30’ ngày 27-4-1975 ta hoàn toàn làm chủ Đảo Nam Yết.

Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc tượng trưng cho ý chí quyết chiến, quyết thắng đã phần phật tung bay trên mốc chủ quyền trong nắng, gió Trường Sa.

Và từ đó đến nay lớp lớp cán bộ, chiến sỹ đảo Nam Yết luôn phát huy truyền thống của Lữ đoàn Trường Sa anh hùng, sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ, đoàn kết một lòng, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Hiện nay các công trình quốc phòng và dân sinh được xây dựng khá vững chắc, xung quanh đảo được bao bọc bởi hệ thống tường chắn sóng kiên cố, có bến cập xuồng, trên đảo đã có nhà 2 tầng và nhiều nhà kiên cố khác, bảo đảm nơi ăn, ở, làm việc cho cán bộ chiến sỹ, đảo có trạm thu phát tín hiệu truyền hình từ vệ tinh, hệ thống năng lượng gió và nhiều phương tiện phục vụ đời sống tinh thần cho bộ đội.

Tuy nguồn nước ngọt và thổ nhưỡng, khí hậu ở đây không thuận lợi như ở đảo Trường Sa và đảo Song Tử nhưng nhờ ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết khắc phục khó khăn Đảo Nam Yết đã tự túc được nhu cầu rau xanh và một phần thực phẩm...

Tài liệu thì nói về đảo "cứng cựa" như vậy, còn mình thì chỉ nói: Đảo rất nhiều cây nên rất xanh mát, còn hơn ối nơi Hà Nội - Sài Gòn và những vùng trong đất liền ấy chứ.

Cứ nhìn màu xanh và xem lướt qua qua theo kiểu "cưỡi ngựa xem hoa" của các Đoàn Công tác chợt đến chợt đi, loáng thoáng chừng 2-3 tiếng đồng hồ bao nhiêu mùa nay khiến bộ đội gặp mùa thăm, chỉ có ăn - đón đoàn - nhăn nhở cười - rặn ra chuyện để trả lời những người lần đầu ra tò mò háo hức... thì rút cục cây nào cũng bị "quy" là bàng vuông, phong ba, bão táp, muống biển.

Nhưng không phải cứ Trường Sa, cứ Nam Yết là chừng ấy cây vậy, mà còn rất nhiều màu xanh thân thuộc, như thể đất liền đầm ấm xanh tươi.

Đầu tiên là dừa. Loại cây này có từ hồi trước 1975, sau phát triển dần dưới tay mát của bộ đội, bây giờ đã có hơn 250 gốc, rải rác khắp đảo.

Mùa dừa ra hoa, chả kiếm đâu ra ong mật nên lũ muỗi - ruồi thi nhau phi lên cây thưởng thức, khiến bộ đội vừa lấp ló chui trong màn ngắm hoa dừa trắng, ngửi hương dừa thoảng vừa nhắm mắt nhắm mũi xua đuổi tụi côn trùng hóa ong thợ tham ăn.

Thích nhất là khi hái trái, mỗi phân đội gượng nhẹ bổ từng quá, hòa nước dừa với nước đun sôi để nguội, gọi là cho có mùi, rồi chia nhau ca nước to đùng, uống từng ngụm, người trước liếm mép, người sau quèn quẹt sau, thương thương là.

Sau dừa đến đu đủ.

May nỗi Nam Yết nhiều cây to, các loại cây nhỏ được thể sống nhờ, đan quyện với nhau như thể tấm lưới ngụy trang, che đủ tứ bề gió bão mùa mưa, nên những loại cây thân giòn như đu đủ, cũng được suất ăn theo, chả lo đổ cây gãy cành, giống bộ đội phải chui xuống hầm ngầm - công sự tránh trú bão như những đảo khác.

Có lẽ vì một phần được chở che, rèn luyện nên đu đủ có thân rất to, quả cũng rất lớn và ngọt thì thôi rồi. Buổi tối ở lại Nam Yết, đợi sáng mai tàu đón, mình ngồi bàn nước ngoài sân Sở Chỉ huy cùng anh Ngọc - Phó Tư lệnh Vùng 4, được BCH Đảo chiêu đãi 1 đĩa đu đủ thực to đùng, ăn vào ngọt lịm.

Cà rà hỏi chuyện, anh em nhấm nháy: "Một phần ngọt cũng là... chất bón tự nhiên!" khiến mình vỡ lẽ: Thảo nào cứ đi về phía đầu - cuối đảo, thấy mùi đặc trưng, hơn cả "nơi quê hương đang bước vào vụ mới", có bịt mũi gọi bộ đội Hóa học, cũng chỉ chụp mặt nạ phòng độc mà thôi.

Nói thế thôi, chứ ở đảo, từ bờ tường, gốc cây, lá rau đều thấm đẫm mồ hôi của Công binh từ bờ ra hay lính đảo 146 qua từng "tăng" đều đặn trát lên, thành sự xanh tươi và "đổi thay hoành tráng" như bây giờ.

Trung tá Hòa - Chính trị viên phó Đảo Nam Yết nhẩn nha kể: Nam Yết tuy điều kiện hơn các đảo chìm, nhưng rút cục đảo vẫn là đảo, rời tiếp tế vận tải ra, là mệt hết. Rau cỏ có thể trồng được, nhưng đất chật người đông, có tưới thuốc thần cũng chả lên kịp để cung cấp đủ 3 bữa/ngày.

Phương án truyền thống vẫn là tiết kiệm rau xanh, nước ngọt để... nhường chỗ cho rau củ quả hoặc là mang từ đất liền ra, bảo quản lâu dài hoặc là đồ rau củ hộp, ăn liên tục, người không quen xuống nằm Bệnh xá là cái chắc.

Cái sự nhường nhịn nhau từ cọng rau, giọt nước của lính đảo, nếu ai vô tâm sẽ chẳng bao giờ thấy.

Đêm ở lại đảo, anh em mang sẵn khăn tắm - xà phòng để cạnh, từ cán bộ đến chiến sĩ thi thoảng lại đảo qua nài nỉ: "Tắm miếng đi, nước dưới hầm mát lắm!", nhưng mình không đành lòng bởi chứng kiến cảnh mấy cậu chiến sĩ, 1 đứa gập hẳn người, chui lút đầu xuống bể nước, đứa khác túm chân sợ rơi, để múc lên từng gàu nước gượng nhẹ, miệng xô gõ vào thành bể khô không khốc.

Thịnh - Trưởng ban Tuyên huấn của Lữ đoàn 146 ghé tai: "Sáng mai anh em mình ra tàu tắm cũng được, ở đảo mấy tháng rồi chẳng có một hạt mưa!".

Đêm trên đảo, lâu lắm rồi mới có 1 đêm trọn vẹn ngồi dưới tán cây Phong ba ven đường từ cầu cảng vào cột mốc chủ quyền, nghe gió biển xào xạc đến chơi với lá, lặng tiếng sóng ì ầm níu kéo lân tinh sáng lấp lánh như mắt trẻ thơ tinh nghịch ùa vào nằm ườn trên cát, sao đêm nhấp nháy phía Tây trong mắt bạn tựa như nỗi nhỡ đất liền khát bỏng ngày đêm, dằng dặc năm này năm khác cùng nỗi niềm hành quân hết đảo này sang đảo khác...

Kể với nhau chuyện đất liền, gia đình và những kỷ niệm ngày xưa hết sức bình thường, nhưng có lẽ cả đời chẳng bao giờ quên nổi.

Xen giữa câu chuyện là những sự "a! ơ!" của bạn và mắt xoe tròn của cậu chiến sĩ trực canh khoác AK ngang qua.

Mà "a! ơ!" cũng đúng, bởi cả năm chôn chân ngoài đảo, mọi liên hệ đất liền qua điện thoại và tình hình cũng chỉ qua tivi - radio mở theo quy định. Gặp người đất liền, cũng chỉ vài Đoàn dịp "Vụ đi thăm" tháng 4-5, tất tưởi đón - tiễn trong chừng 2-3 tiếng với cái sự gần gũi để tìm hiểu, cũng chỉ hơn khách lạ gặp ngoài đường chút xíu, bởi chẳng ai quen ai và rời đảo rồi, mấy ai nhớ - ai quên?..

5 giờ sáng, hừng đông rực rỡ trên biển, kèn đồng lanh lảnh báo thức sớm, xuồng CQ sẵn sàng phóng ào ào đưa mình ra tàu, đang lừ lừ quay lại đón.

Bạn cẩn thận buộc túi bảo quản chống sóng nước, hơi mặn để không làm gãy cây hoa ốc mà bạn tỉ mẩn làm mỗi ngày, từ dịp Tết được bọc cả chục lớp giấy báo ở trong và thì thầm dặn: "Tôi không sơn xanh đỏ lên ốc đâu, mộc mạc vậy để mỗi ngày, nhìn thấy Nam Yết thật thà!".

Xuồng CQ hú còi gọi, bạn sửa lại quai mũ cứng, cài áo phao cho mình và nhét vào túi áo thủy quân mấy nhành rau gầy guộc, tím ngắt nhưng thơm dìu dịu mùi bạc hà thanh khiết.

Bạn bảo: "Tôi xa nhà quen rồi, bạn mang lên tàu cho đỡ nhớ đất liền, còn nửa tháng nữa mới về bờ cơ mà!" khiến mình gặp lại cảm giác nghèn nghẹn, khi buổi chiều hôm trước, thấy bạn vã mồ hôi, gượng nhẹ tưới cho cây rau thơm còi cọc trên bậu cửa sổ đầu giường bạn nằm, thay cây cảnh đầu giường mỗi người lính Trường Sa.
Rời đảo, bóng bạn bé nhỏ hòa lẫn màu xanh điệp trùng Nam Yết và cả những bóng chiến sĩ xanh màu áo dã ngoại, mũ sắt xanh màu biển, khoác AK gác hết ca cuối, trong bóng nắng lấp lóa ban mai.

Và hình như, từ đảo xanh một màu Nam Yết, tàu đi xa rồi, vẫn thấy lấp lóa những ánh mắt sáng, như thể ánh sao xanh canh giữ biển, nơi bất trắc nhưng không bao giờ để Tổ quốc bị bất ngờ, đẫm màu nhớ: Trường Sa...

Nam Yết - Trường Sa, tháng 5/2013.

18 tháng 5, 2013

TRĂNG NƠI CUỐI RỪNG TỔ QUỐC


Thu Hồng - Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.

Điện Biên không ngoài cuộc đua chen lên thành thành phố, nhưng nhìn đâu cũng vẫn đậm mầu tỉnh lẻ, vắng lặng tẻ nhạt.

Cách Điện Biên chỉ hơn trăm cây, để đến được những bản tận cùng giáp biên giới Lào của huyện Mường Nhé, phải đi hết non ngày.

Rừng Tây Bắc giờ sạch sẽ toàn cỏ lác, giống như rừng Tây Nguyên.

Người Mông đốt rừng làm nương, thi thoảng xót lại những cây đại thụ cô quạnh cháy xém.

Cứu rừng bằng cách định canh cho người Mông, nhưng những người làm chính sách ngồi tận Thủ đô và đám chống phá, núp sau đạo giáo, lợi dụng triệt để những khoảng cách giữa thực tế và chính sách.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bạo loạn Mường Nhé hồi năm ngoái.

Mặt trời từ từ lặn.

23 tình nguyện viên của  Chương trình Áo ấm biên cương (AABC), tụ đến từ ba miền, nguyên đêm gật gừ trên xe đò, tiếp gần nguyên ngày dằn xóc, như được tiếp liều thần dược từ khoảnh khắc thiên nhiên huy hoàng ấy, quên mệt hòa nhau hát.

Đêm rừng thẫm rất nhanh.

Vật vã gần 10 giờ đêm mới tới điểm tập kết.

Đồn 415 Nà Khoa là Đồn Biên phòng vất vả, xa xôi nhất trên toàn tuyến hơn 400 cây số đường biên do Biên phòng Điện Biên quản lí.

Cả đồn, vẫn ngồi chờ cơm.

Cơm canh dọn ra trong những cái thau hai quai của lính.

Ba dãy nhà nứa lợp tôn che chắn gió lạnh mưa táp bằng những tấm bạt. Ngăn nắp, sạch sẽ.

Cạnh gian bếp giữ lửa không bao giờ tắt theo phong tục người Mông là một cái nhà tắm cho nữ vừa dựng vội.

Thượng tá Long nói như phân trần: "8 năm làm Đồn trưởng 415, AABC là đoàn thiện nguyện đầu tiên vào đến tận nơi hoang sơ thế này, hẳn tiếp đón có nhiều sơ xuất!".

Những người đàn ông khỏe mạnh, đẹp đẽ giữa bốn bề rừng núi.

Cả năm, vài ngày về thăm gia đình.

Đốt một đống lửa giữa sân, nắm tay nhau chạy vòng tròn.

Mưa sập xuống, nện vào đầu đau buốt. Không ai chịu núp mưa.

Trời đổ nước cả tiếng, đống lửa vẫn không tắt.

Những thằng bé tầm tuổi Gái đẹp, níu chặt cánh tay mình hỏi: "Cô ơi kể cho cháu nghe với, ở Sài gòn người ta ăn chơi thế nào hả cô? Cô ơi hôm nay chúng cháu vui hơn Tết ta. Cô ơi ngày mai đoàn về chúng cháu buồn lắm!"...

Trăng nơi tận cùng của rừng Tổ quốc, vàng đục, vẩn buồn.

Đêm thứ hai không ngủ.

Long tặng cho bộ đồ lính biên, tháo quân hiệu đang đeo nơi ve áo tự tay cài cho mình.

Thức dậy bằng kẻng.

Nỗ lực đến tuyệt vọng cũng không thể ăn nổi cơm vào 6h sáng.

Long bảo: "Ăn mì nhé!". Mì là quà của đoàn tặng đồn, không được phạm.

Chị Hậu Khảo cổ pha cho li cà phê hòa tan.

Nhấm nháp thứ nước xa xỉ và tận hưởng những ánh mắt ấm áp bao quanh mình.

Chào cờ. Lá cờ Tổ quốc lồng lộng bay trên đỉnh cọc tre đơn sơ.

Chưa bao giờ hai chữ thiêng liêng mang cảm giác cụ thể đến thế.

Nghẹn thắt nơi ngực, không thể hát nổi Quốc ca.

Lại mưa. Tốp đu theo xe U-oát, tốp chập chuội xe máy của bộ đội.

Điểm phân phát quà xe tải không vào được, cả đoàn vừa bì bõm khuân vác vừa cười đùa tạo dáng chụp hình, bao nhiêu đứa bấy nhiêu máy ảnh, Iphone Ipad. Gần 1h chiều điểm cuối cùng mới giao xong.

Lên cột mốc.
Mốc nằm trên đỉnh núi, sức lính leo chừng 45 phút là tới.

Đồn cho 5 chú lính dẫn đi. Mình rớt vào tốp cuối.

Và lạc đường.

Kì thực cũng chỉ phát hiện ra  triền lan đất xanh mướt điểm bông tím đẹp mê hồn khi quay về nhà ngắm qua ảnh.

Cắm mặt leo. Chiếc khăn choàng mỏng điệu đà không che được hết hai cánh tay bị lá lan sắc cứa vào nhoi nhói.

Vờ không thấy những con sâu róm vằn vàng vằn đen to bằng ngón tay út.

Đầu tóc mồ hôi gội ướt sũng.

Ngẩng mặt lên, cột mốc ngay phía trước.

Điện Biên là một trong 2 tỉnh có cột mốc 3 mặt Việt-Trung-Lào. Cột mốc kia là Việt-Lào-Campuchia thuộc Kon Tum.

Ngày đầy tràn những cảm xúc. Rưng rưng khóc.

Không cần nửa lời giáo huấn nào về lòng yêu nước. Từ cột mốc này, là Tổ quốc mình.

Chia tay. Cả Đồn lên tận đường xếp thành hàng dài tiễn, trừ Long.

Mình nấn ná đi cuối cùng.

Ngoái lại, Long đứng nghiêm giơ tay chào, mình chào lại, như hai người lính.

Vì mưa, cung đường ấy lần ra gian nan gấp bội lần vào.

Bọn thanh niên phải đẩy xe lấm lem lên tới cổ.

Cố giữ cái áo của Long thật sạch.

Nắng, lấy áo trùm qua đầu.

Chui trong áo, thầm sung sướng khi cảm thấy được chở che.

Chợt so: Nơi phố thị, bao thằng đàn ông, nhỏ nhoi đến thảm hại, trước những thằng bé, trước Long?..

ĐỒNG ĐỘI PHAN VINH


17 tháng 5, 2013

CẦN RẤT THẬT


Mai Thanh Hải - Hì hụi leo lên giàn, chuyển ngay vào bếp túi chanh tươi - ớt tươi và bó sả đã hơi khô nhưng vẫn còn thơm mùi đất liền thân thuộc, anh em mừng ra mặt, hớn hở: "Chiều nay sẽ được ăn 1 bữa cá luộc, đúng vị cá luộc!"...

Vào trong bếp, 2 nồi nhôm vẫn đang âm ấm, né trong góc bếp.

Mở vung: cả 2 nồi to đùng, ăm ắp tận miệng những cá là cá, ngang ngang mùi ớt bột - me hộp át vị tanh, để lùa với cơm, mỗi bữa qua ngày.

Hà, Chính trị viên ngượng nghịu: "Cứ buông câu là giật được cá và ngoài này, chỉ cá là sẵn. Ăn cá riết, cũng chẳng còn cảm giác ngon - lạ!" và phấn chấn: "Hôm nay có củ quả tươi, anh em sẽ luộc cá, ăn thật 1 bữa đúng là cá cho có mùi đất liền. Từ giờ đến gần Tết âm lịch, mới có tàu ra tiếp tế!"...

Tự dưng lại ước: Ai ra với nhà giàn, cố gánh gồng thêm ít rau củ quả tươi, tặng cho anh em sống cheo leo ngoài đầu sóng. Bộ đội mình cũng là con người, nên cần những thứ rất thật, chứ đồ điện tử - sách truyện - tạp chí, cũng quý nhưng chả ăn được, từ giờ đến tít Tết đâu đâu...

Ngoài nhà giàn, cũng trồng được rau này rau khác đấy, nhưng xin nhớ rằng: Mỗi ngọn rau đều được dùng tiết kiệm, tính toán mỗi người - mỗi bữa và màu xanh của rau, có nhiệm vụ chính là bộ đội ngắm cho mát mắt, các Đoàn lên thăm có thứ để... chụp ảnh, chứ bữa cơm thường, chỉ cá và đồ hộp - thức ăn khô...

16 tháng 5, 2013

CÓ AI BIẾT, TRƯỜNG SA?..


Mai Thanh Hải - Đảo gọi là đảo chìm, vì lặn sâu dưới biển, khi nước cạn mới nhô lên chút chút. 

Buổi sáng, tành tạch ca nô vào thăm nhau, đã thấy nghiêm trang điều lệnh chờ đợi, quấn quýt và tỉ mẩn nâng từng chiếc khăn, chan từng ca nước cho người dưới tàu mới lên.

Thế nhưng, có ai biết là trong gian bếp chật hẹp, lẻn vào mở thấy vẫn còn nguyên xoong cơm nghi ngút khói, nồi cá kho cay xè ớt bột và âu canh mì tôm lõng bõng sợi mì vàng...

Chỉ mình hỏi, "chúng nó" mới dám trả lời thật: "Dậy sớm triển khai công tác đón Đoàn, chưa kịp ăn uống gì!" và lấn bấn: "Nước ngọt đang phải dùng dè sẻn. Rau xanh càng phải dè sẻn, 3 ngày nay mới làm được mẻ giá đỗ, anh em nhấm cho đỡ táo bón!".

Có những sự hy sinh, không phải ai cũng biết và cảm giác nhỏ nhoi lại quay trở lại, từ bao năm ra đảo, so với những gì rất thật, đến trần trụi mà "chúng nó" đã - đang - sẽ trải qua, từ ca nước đến cọng giá đỗ, nhấm từ vỏ đỗ xanh cho đến phần rễ thâm, để đỡ táo bón và sống, nơi bung biêng - bất trắc biển trời...

13 tháng 5, 2013

DẶM DÀI TỐC TAN


Mai Thanh Hải - Dặm dài hành trình, rút cục rồi mãi cũng ghé được Tốc Tan. Đảo thì chìm lắm, cứ như ngập hết dưới nước, khi thủy triều xuống mới vươn mình đứng dậy, như cơn lốc biển, nên gọi là Tốc Tan.

Đảo Tốc Tan nằm ở 80 51’ 50” vĩ độ Bắc; 1140 kinh độ Đông. Cách đảo Đá Đông 78 hải lý, cách  đảo Núi Le 6,5 hải lý.

Cụm bãi đá Tốc Tan có chiều dài khoảng 20 km, rộng gần 7 km, diện tích khoảng 140 km2, thềm san hô phía bắc rộng tạo thành vành đai, hình thành hồ nước có độ sâu từ 15-20m. Khi nước thủy triều xuống thấp một số đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước.

Những ngày biển động đi từ xa chúng ta dễ dàng nhận ra đảo bởi sóng đập mạnh vào dải san hô tung bọt trắng xoá.

Ngày 22/2/1988, Bộ Tư lệnh Hải quân đã lệnh cho tàu HQ713 và HQ 07 có nhiệm vụ đóng giữ đảo Tốc Tan.

Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã xây dựng một nhà ở tây bắc Đảo Tốc Tan, hoàn thành ngày 8-8-1988.

Trong khi đó công binh Hải quân cũng xây dựng 3 nhà cao chân trên đảo.

Tháng 8/1988 Phòng bảo đảm hàng hải Quân chủng Hải quân đã thả trong lòng Hồ Tốc Tan 3 phao buộc tàu mỗi phao nặng 2 tấn, khi thời tiết xấu tàu có thể vào neo đậu tránh sóng gió.

Tốc Tan là cụm đảo chìm 3 điểm, khác với các đảo nổi ở đây nguồn nước ngọt dùng cho sinh hoạt được khai thác từ nước mưa và vận chuyển từ đất liền ra.

Những năm gần đây do được trang bị hệ thống bể chứa nên đảo đã chủ động bảo đảm được 100% nhu cầu nước sinh hoạt.

Để tăng gia trồng rau xanh cán bộ, chiến sỹ đảo Tốc Tan phải vận chuyển từ đất liền ra từng bao đất nhỏ. Mặc dù nguồn nước ngọt khan hiếm, song nhờ các biện pháp sử dụng nước ngọt tiết kiệm, khoa học và phù hợp trong sinh hoạt cán bộ chiến sỹ đảo Tốc Tan đã thực hiện tốt công tác trồng rau xanh.

Tổng sản lượng tăng gia năm 2010 của đảo đạt gần 70 triệu đồng. Trong đó rau xanh là 2.246 kg, cá các loại trên 2 tấn và thịt các loại gần 500 kg. Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng, nhà nước hệ thống nhà ở, công trình phục vụ chiến đấu đã và được xây dựng khang trang, vững chắc hơn. Nhất là hệ thống năng lượng gió kết hợp pin năng lượng mặt trời trên đảo được đưa vào sử dụng đã góp phần nâng cao đời sống, đưa cán bộ, chiến sỹ trên đảo về gần đất liền thân yêu hơn nữa.

Trong hơn 20 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành lớp lớp cán bộ, chiến sỹ đảo Tốc Tan đã lập được nhiều thành tích trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ đảo. Năm 2005 với những nỗ lực vượt bậc của cán bộ, chiến sỹ đảo đã vinh dự được Bộ Tư lệnh Hải quân tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”, tháng 4-2006 đảo được Tổng cục Chính trị QĐNDVN tặng Bằng khen...

Tháng 6/1999 đảo đã cứu được 12 ngư dân đánh cá của huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh) gặp nạn trên biển. Phát huy truyền thống đó, ngày nay cán bộ, chiến sỹ Đảo Tốc Tan thường xuyên làm tốt công tác cứu hộ, cứu nạn, cấp cứu, cấp thuốc và chia sẻ lương thực, thực phẩm cho ngư dân bị nạn thể hiện tinh thần đoàn kết quân - dân.

Năm 2010, đảo Tốc Tan đã cấp thuốc, khám bệnh cho trên 50 lượt ngư dân, giúp đỡ trên 2000 lít nước ngọt... góp phần củng cố niềm tin, tạo chỗ dựa vững chắc cho ngư dân của ta ra khai thác hải sản thực hiện thắng lợi chiến lược đánh bắt xa bờ của Đảng và nhà nước.

8 tháng 5, 2013

ĐÁ LỚN YÊU THƯƠNG

Mai Thanh Hải - “Tháng 3 bà già đi biển” – Cứ ngỡ là như vậy nên khi bước chân xuống tàu từ Quân cảng Cát Lái (TP.HCM), cứ… khinh khỉnh với con tàu mới đóng, đưa vào sử dụng, đầy đủ tiện nghi như trong khách sạn 3 sao, bởi “nó” chả là gì so với những tàu vận tải cũ kỹ mà mình đã ra với Trường Sa những đợt trước.

Thế nhưng, lịch xịch chạy khỏi sông Sài Gòn, ra đến cửa Vũng Tàu, dần thấy xa mờ nhà cửa lúp xúp dưới chân núi Bãi Trước, mới thấy là càng đi tàu mới, đầy đủ tiện nghi trong điều kiện thời tiết xấu, sẽ khổ cực và mệt mỏi thế nào.

Biển động, nâng lên cấp sóng 3. Nếu đi những HQ-936, HQ-996, Trường Sa 20… tuy rằng cũ kỹ nhưng độ dằn cao, thì chả là cái gì cả. Nhưng tàu mới đóng cao ngất nghểu, ra biển gặp sóng ngang, dập dềnh nghiêng ngả như bao diêm, làm đa số những người mới đi biển lần đầu, say vật vã, nằm bẹp trong phòng nôn thóc tháo hoặc ngủ li bì, tổ phục vụ của tàu chán nản nhìn những mâm cơm không người ăn, buồn xo.

Sóng ngang, tàu chạy chậm, liền tù tì 2 ngày đêm lang thang, mới ra đến điểm đầu tiên của hải trình, là đảo Đá Lớn.  Đêm thứ 2 li bì, chỉ chợt tỉnh khi neo tàu roan roạt thả xuống biển và ánh sáng trắng, hửng ngoài ô cửa như mời gọi, hỏi đòi: “Này! Dậy đi, chúng tớ thức sớm đợi rồi đấy!”…

Chạy lên boong, phía Đông đã hừng lên những tia vàng lấp lánh, như cuộn chiếu, rửa mặt cho mặt trời đỏng đảnh, rũ nước nhô lên từ lòng biển và phía mạn phải tàu, chới với 3 căn nhà lâu bền của bộ đội, đứng đó canh giữ biển quê hương, xung quanh là tàu trực – tàu cá đầm ấm sum vầy.

Đảo Đá Lớn nằm ở 100 4’ 30” độ vĩ Bắc , 1130 51’ độ kinh Đông.
Cách đảo 20 hải lý về phía Đông Bắc là đảo Nam Yết.

Bãi Đá Lớn nằm chạy dài theo hướng Bắc-Nam, chiều dài nhất của bãi khoảng 15km và chiều rộng trung bình 2km, diện tích ước chừng khoảng 28,5 km2, thềm san hô của đảo kép kín, ở bên trong bãi có 1 hồ; lòng hồ có chiều dài khoảng 10km, chiều rộng khoảng 1km.
Khi thủy triều lên cao toàn bãi ngập nước, khi thủy triều xuống còn 0,5m trên bãi có nhiều đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước.

Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam ghi rõ: Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh Hải quân về thực hiện nhiệm vụ CQ-88, Lữ đoàn 146 Hải quân đã khẩn trương thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện khó khăn và phức tạp.

Ngày 28 tháng Giêng năm 1988, tàu  HQ - 614 nhận quân và vật liệu đi Đá Lớn làm nhiệm vụ đóng giữ đảo.
Tàu HQ - 614 đến Đá Lớn ngày 14-2-1988, sang ngày 15-2-1988 được lệnh ủi bãi cạn phía Tây Nam đảo.
Đến ngày 13-3-1988 hoàn thành xây dựng nhà cấp 3 cho đảo. Cán bộ chiến sỹ  nhanh chóng ổn định sinh hoạt, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đảo.

Đá Lớn là cụm đảo chìm 3 điểm, khác với các đảo nổi ở đây nguồn nước ngọt dùng cho sinh hoạt được khai thác từ nước mưa và vận chuyển từ đất liền ra.
Những năm gần đây do được trang bị hệ thống bể chứa nên đảo đã chủ động bảo đảm được 100% nhu cầu nước sinh hoạt.
Để tổ chức tăng gia trồng rau xanh cán bộ, chiến sỹ đảo Đá Lớn phải vận chuyển từ đất liền ra từng bao đất nhỏ.

Mặc dù nguồn nước ngọt khan hiếm, song nhờ các biện pháp sử dụng nước ngọt tiết kiệm khoa học và phù hợp trong sinh hoạt cán bộ chiến sỹ đảo Đá Lớn đã thực hiện tốt công tác trồng rau xanh.
Tổng sản lượng tăng gia năm 2010 của đảo đạt gần 50 triệu đồng. Trong đó, rau xanh trên 8 ngàn kg, cá các loại trên 1 tấn và thịt các loại gần 400 kg.

Cũng như một số đảo chìm khác, cán bộ, chiến sỹ trên đảo còn gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt và học tập công tác, nhưng với tinh thần “Đảo là nhà, cán bộ chiến sỹ đều là anh em”, những năm qua cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biển đảo, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Trải qua hơn 20 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sỹ của đảo Đá Lớn đã lập được nhiều chiến công góp phần tô thắm truyền thống “Chiến đấu anh dũng, đoàn kết chủ động, khắc phục khó khăn, giữ vững chủ quyền”của Đoàn Trường Sa anh hùng. Năm 2000, 2007 đảo được Tư lệnh Hải quân tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”.

Hiện nay, đời sống vật chất tinh thần của cán bộ, chiến sỹ đảo Đá Lớn từng bước được cải thiện. Các điểm đảo được trang bị máy thu hình, hệ thống karaoke kỹ thuật số hiện đại. Trạm thu phát tín hiệu vệ tinh của đài Truyền hình Việt Nam đã giúp cho cán bộ, chiến sỹ trên đảo cập nhật kịp thời những thông tin trong nước và thế giới.

Trên các điểm đảo có tủ sách, báo với gần 1.000 đầu sách và trên 20 đầu báo các loại, 1 tủ sách pháp luật... qua đó nâng cao nhận thức, niềm tin, trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng  và bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đá Lớn không lạ với mình. Ít nhất thì cũng qua với đảo năm 2008, ở cả buổi chiều với bộ đội, xong mới rút ra HQ-996. Cũng ở đảo, liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng đã hy sinh khi ở tuổi 18 và năm rồi, mình cùng các đồng nghiệp đã góp sức đưa được cháu Hùng về chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sĩ quận Ngô Quyền, Hải Phòng, sau gần 10 năm cháu nằm lại đảo và quận Ngô quyền không muốn nhận hài cốt.

Vì vậy, thân thuộc với Đá Lớn lắm lắm.

Ở với đảo, lại 1 buổi sáng, quây quần cùng bộ đội, háo hức đợi Đoàn Công tác đầu tiên trong “mà đi thăm đảo” 2013, chứng kiến cảnh những sĩ quan trẻ, lấp lánh Thiếu úy, Trung úy vàng rực trên quần phục trắng lóa điệu đà, nhưng cứ lóng ngóng bởi: “Có Đoàn ra thăm, mới có dịp mặc quân phục chỉnh tề!”; những gương mặt đen cháy, trơ ra gian khổ sau bao ngày bão gió, bỗng đỏ bừng, luống cuống núp sau lung đồng đội, đùn đẩy nhau: “Ra đi! Ra đi kìa!” khi mấy em văn công xung kích của Đoàn Ca Múa nhạc Thăng Long (Hà Nội), Đoàn Quảng Trị dạn dĩ khoác tay chụp ảnh chung…

Và ở Đá Lớn, trên tầng 2 điểm A, ngoài hiên nhà có 2 bồn hoa nặng trịch bê tông nhưng bên trong chỉ duy nhất trồng 1 cây gừng cao chừng 4 đốt tay, thân bé tý, lá mỏng mảnh cháy sém. Mỏng mảnh quá, khi phải chấp nhận sống ở trong cát, thay vì đậm đà hương đất, nên bộ đội phải cưng nựng, cắm bên cạnh cây xương rồng quen thuộc, cho thân gừng quện chặt, không xiêu vẹo trước bão táp – mưa sa.

Chợt nhớ đến câu “gừng cay muối mặn xin đừng quen nhau”, khi câu hát “Người ơi người ở đừng về”, thánh thót vút lên lúc buổi trưa, của ca sĩ nào đó khi rời đảo và giọt nước mắt ánh lên màu trắng muối của Đại úy Phượng Đảo trưởng, khi đứng nghiêm trên bờ đảo, giơ tay chào ngang vành mũ những người khách qua thăm, đến khi xuống đã xa, vẫn thấy bóng cao gầy nghiêm trang cùng Đảo.

Và Phượng cũng như bao người lính ra với biển từ vùng quê Đồng bằng Bắc Bộ, thân thuộc với lúa vàng – gừng cay, có thể mỏng mảnh trước gió khi lần đầu ra với biển, nhưng được chở che cùng xương rồng – mẹ Biển, sẽ quện chặt lòng, ngẩng cao đầu mãi mãi bảo vệ Đá Lớn thương yêu…

Đảo Đá Lớn (Trường Sa, Khánh Hóa), buổi trưa ngày 08/5/2013

5 tháng 5, 2013

NHÉ MƯỜNG


Beo - Đừng mắng mỏ nhà nước tội nghiệp. Nhà nước cũng quan tâm sâu sắc lắm, quá sâu sắc là đằng khác.

Ví như  trường bản không có điện vẫn được cấp phát tới mấy cái đàn Organ.

Chỉ những nơi quá cách trở của huyện Mường Nhé, huyện giáp biên của tỉnh Điện Biên, mới thiệt thòi vì... quá cách trở, mà thôi.

Trăm nghe không bằng một thấy, trường của các cháu đây.

 Công trình phụ bao gồm bếp và nhà tắm trong căn nhà (gọi thế cho sang trọng) của thầy cô.

Trường điểm, được xây lát  đàng hoàng, duy bọn học trò đứa có dép đứa không, đứa áo ấm đứa phong phanh vì khoản này nhân dân tự lo.

Xa gần ai có lòng với các cháu, bỏ bớt một bữa quà sáng nơi thị thành là thêm một đứa bé có dép đi hay áo ấm mặc.

Mọi liên hệ tự tìm hiểu ở đây: http://aoambiencuong.com

Tin Beo đi, tiền của các bạn sẽ được chi dụng cẩn thận bởi những người thế này:

 Mình yêu con bé này nhất. Xoe xóe xoe xóe ốm tong teo, nhưng gần 5 tấn hàng nó điều hành gọn hơ và nhất nhất áp tải theo xe chứ không ngồi máy lạnh theo đoàn tình nguyện.

Đêm đầu, xe hỏng ở Lai Châu phải sang hàng lên xe khác. Đêm sau, rừng đêm đường xóc long phổi.

Thân gái dặm trường, mình thắc thỏm lo bỏ nhỏ ku trưởng đoàn: "Em ơi thêm thằng đàn ông cho nó!".

Chưa kịp khoác xong cái áo lạnh, Ku được cử đi lúc cúc quay lại: "Nó đuổi em!".

(Trong hình: Ngủ đêm ở Đồn Biên phòng).
*****
Con bé này xinh miên man. Quần xanh cũng vẫn dính chặt lưng cái ba lô đỏ, như con cánh cam.

Cơm áo gạo tiền nằm cả trên lưng nó.

Đoàn ăn theo xuất của bộ đội, ăn ở di chuyển tự đóng tiền, đừng hòng phạm một đồng của các cháu với nó.
*****
Ku này uống diệu ngang mình.

Đại khái nó uống như nước lã mình uống như nước lọc.

Lên xe toàn phải dùng bia rã diệu. Những việc nặng nhọc nhất thấy mặt nó hàng đầu, khuân vác hàng, đẩy xe qua chỗ lội...

Mình không mấy khoái  nó duy nhất ở điểm, chỉ rủ mấy con trẻ trẻ đi ăn cháo đêm để mình nằm chèo queo. Ăn cháo ở đây chiểu theo câu "Bộ đội cô giáo nấu cháo cùng nhau", do người xuôi lên mạn ngược sáng tác.

(Trong hình: lắp ráp dàn Karaoke tặng Đồn Biên phòng).

Trẻ con người Mông, yêu lắm.