1 tháng 5, 2013

DẶM DÀI MƯỜNG NHÉ


Mai Thanh Hải - Mình lên huyện xa xôi, khó khăn và nhạy cảm, có lẽ nhất khu vực Tây Bắc và toàn quốc mấy năm nay: Mường Nhé (Điện Biên) đã 2 lần. Lần nào  cũng mướt mải - lăn lóc và về nhà ốm đến mấy ngày.

Thế nhưng chuyến đi thứ 3, đúng dịp 6 ngày nghỉ lễ 30/4-1/5/2013 này, mang 3,5 tấn hàng hóa tặng cho hơn 2.000 giáo viên - học sinh của xã Nà Khoa, mới thực là chuyến đi đáng nhớ nhất, được Trời thử thách nhiều nhất nhưng cũng đồng lòng nhất, nên mới hoàn thành nhiệm vụ và trở về lại Hà Nội sau 5 ngày 4 đêm lăn lóc trên xe khách lụi cụi bò Tây Bắc, lăn lóc trên Đồn Biên phòng 415 Nà Khoa thiếu thốn đến xác xơ, vất vả nhất trong toàn bộ lực lượng Biên phòng tỉnh Điện Biên.

Mà thật. Sáng thứ Sáu (26/4), chiếc xe tải 3,5 tấn đầy ặc hàng, xuất phát trước lên Điện Biên theo kế hoạch ghi rõ "6h00 sáng thứ Bảy, 27/4, Đoàn Công tác lên đến TP. Điện Biên, đi xe 29 chỗ đã thuê sẵn, cùng xe tải chở hàng, dưới sự dẫn đường, ứng cứu của xe Uoat BCHBĐBP Điện Biên (4 cán bộ Biên phòng tỉnh đi cùng, hỗ trợ - bảo vệ khi có tình hình xấu xảy ra), hành quân vào xã Nà Khoa (huyện Mường Nhé), ăn đồ khô ngay trên xe để kịp đầu giờ chiều trao quà cho 3 cấp học của điểm Trường chính tại xã Nà Khoa, buổi tối xong, hành quân tiếp 11km nữa hướng ra biên giới, nghỉ tại Đồn Biên phòng 415 Nà Khoa, ngày hôm sau (27/4) chia thành các nhóm, chia quà cho từng điểm Trường"...

Thế nhưng, buổi sáng tinh mơ, gần đến TP. Điện Biên, khi núi đồi đã trập trùng đầy trước cửa kính xe, gọi điện hỏi lái xe tải, mới ngã ngửa: "Chiếc xe bị hỏng, nằm tít TP.Sơn La, không thể khắc phục được".

Đôn đáo, mãi rồi cũng nhờ thuê được 1 chiếc xe tải khác, nhờ người bốc toàn bộ hàng sang xe tải khác, hì hục ngược lên Điện Biên cho kịp Đoàn.

Kế hoạch trao quà đầu giờ chiều bị "phá sản"bởi đầu giờ chiều, xe tải chở hàng mới lên đến nơi, kịp nhập vào Đoàn đang đứng ngồi bồn chồn chờ đợi, ngược Nà Khoa (Mường Nhé) chỉ gần 200 km, nhưng xe chạy phải gần 9 tiếng đồng hồ, trong sự lo lắng, nghẹt thở của tất cả mọi người, suốt cung đường rừng lầy lội, sạt lở và hun hút không 1 bóng người dân, đèn dầu...

Mãi đến khi chiếc xe Uoat biển đỏ QB của BCHBĐBP tỉnh Điện Biên dừng lại ven đường, cạnh lố nhố cả chục bóng áo xanh Biên phòng bồn chồn soi đèn pin chờ đợi, cả Đoàn mới thở phảo nhẹ nhõm: "Tới rồi! Đồn ơi!"...

Sáng sớm hôm sau, ngày Chủ nhật (28/4), kẻng báo thức vang rền núi rừng, cứ ngỡ chào cờ xong, các nhóm sẽ cố gắng đến được các Điểm Trường như đã phân công, làm nhanh cả phần việc chiều qua.

Thế nhưng, vừa ăn sáng xong, mưa rừng đã ào ào trút xuống, như đổ nước, kéo dài đến hơn 8h vẫn chưa ngớt.

Kệ mưa! Cứ phải đến cho được 2 điểm Trường chính, chia quà cho gần 1.500 học sinh đã tập trung về chờ từ hôm trước (theo lịch, các cô trò được nghỉ ngày lễ 30/4-1/5, nhưng phải ở lại chờ Đoàn), đang bồn chồn ngóng chờ.

Cả Đoàn cùng CBCS Biên phòng lại lụp xụp áo mưa dỡ hàng, phân bố hàng và kì cạch khênh vác, lên điểm Trường Nà Khoa số 2 gần đó, dỡ hàng xong, xe tải lại lóc cóc ngược ra điểm chính Nà Khoa, với gần 20 bộ đội - Thành viên AABC ngồi xe tải, Uoat yểm trợ, phân chia hàng.

Và lại may mắn nữa là quãng đường 11km ngược từ Đồn ra điểm Trường chính, dù trời mưa, xe không bò nổi qua mấy con dốc trơn hơn đổ mỡ, đất ngập ngang bánh xe, ngay cua tay áo, nhưng có mấy xe ủi đang thi công đường TTBG gần đó, nhiệt tình giúp đỡ kéo xe khỏi chỗ lút, như thể đồ chơi...

Buổi chiều, khi mọi công việc đã xong, cả Đoàn vừa về đến Đồn, chưa kịp rửa mặt, đúng lúc mưa ào ào quất xuống, cùng với gió phần phật như muốn nhổ băng cả khu doanh trại mái lá, vách tre, cột gỗ chôn dưới đất.

Và mưa đá, toàn to bằng cỡ ngón tay cái lao thẳng xuống sân, lóc xóc theo nước chảy xuống dòng suối đục ngầu, trước sân Đồn.

Hú vía!. Bây giờ mà còn lang thang trên đường, thể nào cũng có khối người vỡ đầu, chả có chỗ trú giữa đồi núi trơ trọi, đường vắng hoe hoắt...

Đêm thứ 2 ở lại với Nà Khoa, lại mưa ào ào suốt đêm và chỉ ngừng khi kẻng báo thức uể oải vang lên.

Chia tay Nà Khoa vào buổi sáng ngày thứ 3, hành trình ra với TP. Điện Biên giống như chuyến xe bão táp, cứ lên xuống - đẩy xe đến hết sức, với sự trợ giúp không thể thiếu của chiếc máy xúc gần đó, được điều đến kéo xe.

Quãng đường 80km từ Nà Khoa ra đễn chỗ ăn trưa: Đồn Biên phòng Si Pa Phìn, kéo dài đến 6 tiếng đồng hồ, mới tạm yên lành, sau chuyến đi để lại ấn tượng không quên, về dặm dài Mường Nhé...

Và mình, sẽ kể nhiều nữa về nơi xa thẳm, gian khó đến cùng cực này, trên đỉnh chốt biên cương.
------------------------------------------------------------------------------------------------
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CHUYẾN ĐI CỦA TÁC GIẢ ĐỖ NGỌC (TP.HCM)



GIẢI PHÓNG SÀI GÒN HAY GIẢI PHÓNG TP.HỒ CHÍ MINH?..

Hình ảnh lưu trữ tại Bảo tàng Dệt may Nam Định, với chú thích "Thành phố Dệt trong ngày vui đại thắng". Mình đọc khẩu hiệu đằng sau, toát mồ hôi: Thời điểm 30/4, toàn nghe nói đến sự kiện giải phóng Sài Gòn và mãi hơn 1 năm sau, ngày 02/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam mới thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chả lẽ mãi hơn 1 năm sau, công nhân Dệt Nam Định mới biết đến sự kiện này, hay là họ "diễn lại" cảnh mừng chiến thắng, hoặc tất cả họ là Quốc hội, "hoạch định" sẵn tên phố, trước khi họp?.. (Nguồn hình: Việt Thắng Lê FB)

27 tháng 4, 2013

TẢN MẠN THÁNG TƯ

DG Blog - Đã qua nhiều tháng tư
Nhiều tháng tư bây giờ không nhớ nữa
Nhưng có một tháng tư lịch sử
Cuộc chiến tranh khốc liệt tới điểm dừng …

Đã xa rồi những chiến công chiến thắng vinh quang
Cả bên thắng và bên thua cuộc

Những người lính mái đầu điểm bạc
Ngoái lại rùng mình trước ngút ngát hy sinh!.

Đem máu xương để đổi lấy hòa bình
Nhưng giữa hòa bình đâu là hạnh phúc?

Mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước
Xót xa trông hưng phế những triều vua!..

Xin đừng thêm nữa những tháng tư!
Xin đừng xây vinh quang trên xương máu!..

Đã quá đủ những anh hùng chiến đấu
Xin có một anh hùng cứu nước khỏi lầm than!..

15/4/2013

Thơ Lê Huy Mậu.

26 tháng 4, 2013

CÓ THỊT CHUỘT ĂN, ĐÃ TỐT...


Áo ấm Biên cương - Trước giờ thồ 3,5 tấn hàng gồm quần áo, ủng dép, sách vở, lương thực - thực phẩm lên tặng 1.974 đứa học sinh lít nhít Nà Khoa (Mường Nhé, Điện Biên), nhận 1 cú điện thoại gấp gáp: "Tôi là giáo viên, nhà ở Cầu Giấy. Hôm rồi có đọc bài của bạn nói về học sinh trên miền núi thèm thịt. Nay, vừa được nhận 1 trịệu đồng tiền thưởng 30/4-1/5, ra ngay siêu thị mua thịt hộp và xin địa chỉ tập kết hàng, để nhờ các anh chị mang lên biên giới Nà Khoa"...

Nghe xong, lại tẩn mẩn nghĩ chuyện ăn uống của học sinh vùng cao, nhất là bọn học sinh Nội trú - Bán trú, lại nhớ đến phóng sự của cô Nguyễn Ngân ở VTV, khơi mào chuyện học sinh ăn thịt chuột, phát trên Thời sự VTV, sau đó các báo giấy - báo mạng ào ào "ăn theo" tanh tưởi, với những cái tít như thể lá ngón: "Kinh hoàng học sinh ăn thịt chuột", "Lần đầu tiên chứng kiến cảnh học sinh ăn thịt chuột"... cứ như là các ông bà phóng viên chuyên ngồi phòng lạnh này, mới phát hiện ra một châu lục khác và la làng, kinh tởm.

Chuyện thiếu dinh dưỡng, không đủ chất mà nói thẳng ra là đói cơm - thiếu thịt là chuyện quá bình thường ở miền núi.

Với bọn trẻ con đi học xa, phải tự lập ăn ở cả tuần, chuyện này quá bình thường và như các cụ nói "Đói đầu gối phải bò", học sinh bắt tất cả những con gì mình bắt được, ăn tất cả những gì ăn được, để cái mồm đỡ nhạt, cái bụng không sôi ùng ục, âu là lẽ thường tình.

Thịt chuột á!. Cao cấp và hơi bị xa xỉ đấy, bởi núi rừng bị cạo trọc, đến chuột cũng đói và chết dần chết mòn, lấy đâu ra mà bắt?.

Tôm cá á!. Đầu nguồn đào đãi vàng, lại thêm cảnh uýnh cá bằng thuốc nổ, nên có mò cả ngày cũng chỉ kiếm được vài con ốc vặn, bé quá đầu tăm, lấy đâu cá suối tôm sông mà ăn?..

Thôi thì đành: Dế mèn, bọ xít, kiến mối, thằn lằn... Cứ con nào ngửa lưng lên trời, vào tay học sinh là thành món ăn hết.

Đừng trách chúng nó, bởi chúng đói quá.

Đừng trách thầy cô, bởi thầy cô cũng đâu có ấm no.

Lại nhắn mấy đồng nghiệp đang say mê tìm "thịt chuột": Lục lại trong đầu, xem còn 1 chút tình thương thật sự nào không, khi thấy con trẻ khổ cực như vậy và đừng đem con trẻ ra dựng trong bài báo câu viu rẻ tiền - thu hút sự tò mò của người đọc, mà hãy làm 1 việc cụ thể, đơn giản như bạn giáo viên ở Cầu Giấy, mua mấy hộp thịt, gửi lên tặng bữa ăn con trẻ vùng cao...

(Cũng nhắn luôn mấy "lều báo": Chuyện ăn thịt chuột, quá bình thường và xa xưa rồi, như tấm hình này chẳng hạn...).

* Bài viết có sử dụng hình ảnh đã đăng tải trên trang xomnhiepanh.com

THÁNG TƯ...

Hậu Khảo cổ - Tháng Tư là một khoảng thời gian “âm tính” bởi những ký ức từ gần 40 năm trước luôn luôn quay về, mỗi năm như không hề nhạt bớt với cả bên “thắng cuộc” hay bên “thua cuộc”.

Nỗi đau của thế hệ tham chiến bên này lẫn bên kia, không chỉ vì sự hy sinh đã không được đáp đền xứng đáng, mà còn là nỗi đau của những lý tưởng đã không trở thành hiện thực…

Họ - Cả hai bên, như những người anh em ruột thịt, thù/ hận/ ghét nhau nhưng không thể quên nhau, càng không thể dửng dưng như những người xa lạ.

Nhưng cũng từ ngày cuối tháng Tư năm ấy, thế hệ hậu chiến đã ra đời và trưởng thành.

Nhiều người trong họ tự nhận mình là “bên bỏ cuộc” – không muốn nhắc lại “hận thù nợ máu” của những chính thể, mất mát tổn thất của gia đình, họ nhìn về tương lai nhiều hơn, họ bình thản và cũng xa lạ với nhau hơn khi cùng nhìn về quá khứ.

Như những người “đồng hương”, mối liên hệ bà con xa gần giữa họ như một sợi dây mà thời gian càng dài càng trở nên mỏng manh trong cái thế giới ngày càng phẳng…

Lại có những người ở giữa hai thế hệ trên, họ là thế hệ “vùng biên” của thời chiến và thời bình, tuổi thơ của họ là chiến tranh, bắt đầu trưởng thành là cuộc sống khốn khó thời bao cấp, bước vào tuổi trung niên dù ở trong hay ngoài nước hầu hết họ có một cuộc sống tương đối ổn định.

Ở họ vừa có sức chịu đựng của thế hệ tham chiến, lại vừa có sự bất mãn không cam chịu của thế hệ thời hậu chiến.

Ký ức chiến tranh tưởng đã biến mất nhưng thật ra vẫn ẩn sâu trong tâm thức họ, để có khi vào một lần nào đó, nhân một chuyện gì đó, tâm thế bên này bên kia ở họ sẽ vô tình bộc lộ, nhói đau như chọc phải cái răng sâu lâu nay nằm im chưa gây nhức nhối.

Bạn và tôi thuộc thế hệ “vùng biên” này.

Chúng ta đều ý thức được rằng, thế hệ chúng ta có trách nhiệm cần phải mở đầu, thúc đẩy và tiến hành những mối quan hệ nhằm làm lành vết thương của thế hệ tham chiến, làm cầu nối cho những trái tim thế hệ hậu chiến còn thờ ơ đến được với nhau, bởi chúng ta có sự trải nghiệm chiến tranh có cả sự hiểu biết của thời "toàn cầu hóa" để chia sẻ với thế hệ cha anh và thế hệ con cái chúng ta.

Nhưng, từ sự hiểu biết đến việc chia sẻ được vẫn là một khoảng cách không gần, khoảng cách tạo ra bởi thiếu vắng sự cảm thông và lòng bao dung ngay trong mỗi chúng ta.

Chúng ta có thể thông cảm với hoàn cảnh của cả xã hội, một cộng đồng hay một nhóm người yếu thế ở nơi này nơi kia…

Nhưng với mỗi con người, trong những trường hợp cụ thể thì dường như “cái tôi” vẫn quá lớn, chỉ từ mình, vì mình, cho mình…

Hiếm khi nào ta thử đặt ta vào vị thế của người khác, vì thế sự khác biệt của chúng ta có vẻ như ngày càng nhiều, có khi còn là hơn được thắng thua dù những điều ấy không phải là quá quan trọng trong cuộc sống.

Nói cho cùng, sự thiếu hụt tình cảm bao dung và lòng vị tha là một biểu hiện khác của "mặc cảm thất bại" mà một thế hệ bị mất mát và tổn thương về tinh thần đã không cố gắng để bù đắp lại những mất mát và tổn thương ấy…

Sự mặc cảm – dù ẩn dưới hình thức nào: kiêu ngạo của ý chí hay yếu đuối của cảm xúc cũng cần được nhìn nhận, nếu không chúng ta sẽ không có được sự đồng cảm trong hành xử, mọi điều ta nói chỉ là lý thuyết, những việc ta làm sẽ là duy ý chí.

Thế hệ chúng ta đã ở vào lứa tuổi của thế hệ cha anh khi chiến tranh kết thúc.

Nếu chỉ biết trăn trở chỉ có ước mơ bạn và tôi sẽ không bao giờ thực hiện được điều gì dù chỉ là một điều giản đơn nho nhỏ: làm sao để những người Việt Nam từng ở bên này bên kia có thể gặp nhau ở bất cứ đâu một cách thoải mái, chân tình, ấm áp như người ruột thịt, để cho người bạn vong niên thân quý của chúng ta có thể về lại quê hương, sống bình an vào những năm cuối đời…

Gần 40 năm rồi sao chúng ta vẫn chưa thực sự ra khỏi cuộc chiến…

Câu hỏi này đến lúc nào và ai sẽ trả lời, nếu không bắt đầu từ bây giờ, từ bạn và tôi?..

25 tháng 4, 2013

PHÁ ĐÀN XÃ TẮC, XÂY SỰ BẾ TẮC?..

Đào Tuấn - Nếu chúng ta giải quyết một nút tắc giao thông bằng việc phá bỏ một đàn xã tắc thì cái mà chúng ta nhận lại không phải là một con đường thông thoáng mà sẽ là một bế tắc.

Bế tắc về tình cảm và niềm tin.

Tuần trước, dư luận “giật kinh phong” trước tin một con nợ ở Hải Phòng đã thế chấp cả khu lăng mộ dòng họ.

Tất nhiên, khu lăng mộ này nằm trên đất và thứ đưa vào thế chấp mà giấy tờ mảnh đất, trên có lăng mộ.

Người đàn ông khốn khổ này đã “biến mất”, người ta ít nhiều cũng thông cảm với sự khốn quẫn của một con nợ trong thời buổi chủ nợ gửi vòng hoa viếng sống con nợ bây giờ.

Nhưng về mặt đạo lý, khó có thể lấy sự khốn quẫn nào ra để bao biện cho một hành vi báng bổ ông bà ông vải như vậy.

Bởi chung quy tất thảy vì tiền.

Bởi thật khó tưởng tượng nếu Ngân hàng phát mãi, và người mua lại mảnh đất, lại là một ông chủ trang trại chẳng hạn.

“Ông chủ trang trại” kiểu đó vừa xuất hiện ở Hà Nội trong vai một vị Chủ tịch Hiệp hội.

"Khu chuồng trại" là cây cầu vượt.

Và “lăng mộ tổ tiên” thì xuất hiện không chỉ là nơi thiêng liêng của cá biệt một gia đình: Nó là một Đàn Xã Tắc.

Công văn của Hiệp hội Vận tải Hà Nội, như giọt nước làm tràn chiếc ly dư luận trong vụ “Cầu vượt vắt trên đầu đàn Xã Tắc”, rất thú vị, có trò chơi chữ: “Đàn Xã Tắc hay tắc Xã Đàn”.

Đọc 7 chữ này đã để đủ thấy tinh thần của các nhà doanh nghiệp: Cái đàn, dù Xã Tắc, chỉ là “phế tích của một triều đại phong kiến đã bị phá hủy” chi bằng, phá quách nó đi, như là “xóa đi hình ảnh chế độ phong kiến mục nát trong tâm thức người dân”.

Logic đơn giản: Xóa đàn Xã Tắc để khỏi tắc đường.

Nhưng nếu đảo ngược lại 2 vế, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác: Để khỏi tắc nút giao Xã Tắc, nên phá quách cái Đàn Xã Tắc.

Không đơn giản chỉ là việc giải quyết một cái tắc bằng việc xóa bỏ một chữ tắc, đúng không, thưa các bạn?.

Có lẽ chính vì thế, các nhà văn hóa đã phản ứng một cách cực kỳ quyết liệt.

Tiến sĩ Sử học Nguyễn Hồng Kiên - người trực tiếp tham gia khai quật Đàn Xã Tắc hôm qua có thư ngỏ gửi các vị lãnh đạo Quốc hội “kêu oan” cho Đàn Xã Tắc.

Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền thổn thức: “Đàn Xã Tắc là đàn gắn với Tổ tiên, gắn với trời đất. Giờ chúng ta dùng cây cầu cao hơn cả trời đất thì nước này lụi bại à?. Chỗ ấy là Đàn Xã Tắc để thờ trời đất, xây cây cầu cao hơn trời đất thì chúng ta sống hay chết?”.

Nhưng phản ứng mạnh mẽ nhất là một chữ của Nhà Sử học, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc.

Trả lời báo chí, Nhà Sử học đã nổi giận thực sự: “Người ngu mới nói xóa Đàn Xã Tắc để xóa tàn dư phong kiến”.

Đang là một thành viên Hội đồng Di sản Quốc gia, ông Quốc ví Đàn Xã Tắc như cái bàn thờ trong mỗi gia đình, và trong khi người ta định xây cầu vượt lên trên “bàn thờ”, thì thậm chí “Hội đồng hoàn toàn không được tham khảo ý kiến”.

Nên thông cảm cho chữ dùng của ông Quốc, ông cũng từng là nạn nhân của cái chữ này.

Có lẽ, chỉ khi quá nóng giận, hoặc đứng trước những điều ngu xuẩn thực sự người ta mới văng một từ khó nghe đến như vậy.

"Nói ngu, rõ ràng hơi quá” - Như lời "nạn nhân" của ông đã bình luận ngay sau đó. Nhưng bảo không phải ngu, thực ra cũng… hơi quá.

Vậy tư tưởng xóa Đàn Xã Tắc đang là biểu hiện của cái gì?. Sự “Thực dụng đến mức có thể quên tất cả (để) làm lợi cho mình”- lời Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc.

Phương Tây có câu hay, nhưng đã nhàm, đại khái: "Nếu anh bắn quá khứ bằng súng lục thì tương lại sẽ bắn lại anh bằng đại bác”.

Còn bây giờ, nếu chúng ta giải quyết một nút tắc giao thông bằng việc phá bỏ một Đàn Xã Tắc thì cái mà chúng ta nhận lại không phải là một con đường thông thoáng mà sẽ là một bế tắc.

Bế tắc về tình cảm và niềm tin.

Thật kinh khủng đối với những suy nghĩ rằng, ít nhất là một di tích lịch sử, gắn với ông bà tổ tiên, gắn với lịch sử, với đất nước lại có thể bị xóa bỏ chỉ để giải quyết một nỗi bức xúc là tắc đường...
-----------------------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại, không phải nguyên bản của tác giả.
* Hình ảnh đã đăng tải trên trang OF, chỉ có tính chất minh họa, không liên quan đến nội dung bài viết.